Thứ Hai, 11 tháng 12, 2023

Hoa trái Lời Chúa - Hành trình 52 tuần (Tuần thứ hai)

Tuần 2 Mùa Vọng Năm B - 11/12/2023 "Trời cao nghe chăng, trần gian khấn van mưa nguồn ơn cứu chuộc…” Lạy Chúa Giêsu, tuần đầu tiên của mùa vọng đã qua đi. Nếu trong tuần đầu tiên Lời Chúa nhắc nhở con phải luôn tỉnh thức để chuẩn bị cho ngày Chúa đến, thì trong tuần thứ hai lời này lời kêu gọi đã trở nên khẩn thiết rất nhiều, vì ngày Chúa đến đã gần kề. Đoạn TM của Thánh Mác-cô giúp con sống lại tâm tình của dân Chúa năm xưa: sự khát khao trông đợi Đấng Cứu thế ngự xuống để giải thoát muôn dân khỏi ách nô lệ, sự thôi thúc phải sám hối tội lỗi để xứng đáng đón nhận Đức Chúa giáng trần, sự quyết tâm hoán cải và tuyên xưng lòng tin vào Thiên Chúa như được thể hiện qua hành động đến chịu phép phép rửa với ông Gioan Tẩy Giả, người Tiền hô của Đức Giêsu, con Thiên Chúa. Con nhìn lại mình, một tín hữu đã chịu phép rửa từ lúc mới sinh ra, đã được đón nhận đức tin để biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế mà Chúa Cha đã hứa, đã được Chúa tha thứ và giải thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi. Vậy mà con vẫn nhiều lúc sống như không có Chúa trong cuộc đời con, tâm hồn con vẫn đầy những con đường cong queo đầy gò đống và hố sâu gập ghềnh ngăn cản Chúa đến với con. Nghĩ lại, con thật ân hận và xấu hổ vì đã bao lần mạnh miệng hứa với Chúa rằng từ nay quyết chừa mọi tội lỗi, để rồi rất nhanh sau đó đã làm ngược với những điều mình đã hứa. Và hôm nay, lạy Chúa, lại một lần nữa con quyết tâm hoán cải để chuẩn bị tâm hồn đón Chúa. Xin Chúa ban cho con thêm lòng khao khát và sự quyết tâm để can đảm bạt mọi núi đồi của kiêu căng ích kỷ và lấp các hố sâu chia rẽ hận thù, để con đường tâm hồn của con trở nên quang đãng và ngay thẳng, để không còn điều gì ngăn cản Chúa đến trong đời con. Lạy Chúa Giêsu, lòng con khao khát Người. "Yêu thương, lòng con chờ mong, xin Chúa xuống…”

Hoa trái Lời Chúa - Hành trình 52 tuần từ CN 1 Mùa Vọng 2023 (Tuần thứ nhất)

Tuần 1 Mùa Vọng Năm B - 6/12/2023 Lạy Chúa, mùa Vọng một lần nữa lại đến trong không khí háo hức, hân hoan chờ đón ngày lễ kỷ niệm Chúa xuống thế làm người. Thêm một lần nữa trong đời, con được nhắc về ngày Chúa sẽ ngự đến trong đời con, để con được diện kiến Thánh nhan của Người. Đọc bài Tin mừng CN thứ nhất mùa vọng năm nay, con chợt nhận ra lý do vì sao Giáo hội bắt đầu một năm phụng vụ bằng Mùa Vọng. Đây là thời gian hằng năm Chúa kêu gọi con bắt đầu lại, nhắc nhở con rằng cuộc sống trên dương thế này là một cuộc chờ đợi trong tâm thế chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận Chúa, như người đầy tớ trông chờ chủ của mình trở về. Trong thời gian ấy, những người đầy tớ trung tín sẽ luôn chăm chỉ và hết lòng thực hiện những lời dặn của chủ, trong khi những kẻ đầy tớ lười biếng tận dụng cơ hội này để vui chơi và làm mọi việc theo ý riêng của mình. Có thể họ không định phản bội chủ mà chỉ là biếng nhác và tự nhủ rằng vẫn còn thời gian trước khi chủ về để thực hiện những lời dặn của chủ. Thực không may cho những kẻ này nếu khi chủ về bắt gặp họ tình trạng nửa tỉnh nửa mê vì say rượu, áo quần xộc xệch, nhà cửa của chủ thì bề bộn những bát đĩa ly tách dơ bẩn vì chưa được rửa sau những cuộc truy hoan không dứt... Không một người chủ nào có thể hài lòng hay chấp nhận n hững tên đầy tớ lười biếng và vô dụng như thế. “Phải canh thức!” Chúa đã nói với con như thế qua bài tin mừng của Thánh Mác-cô. Con tạ ơn Chúa đã nhắc nhở con vì con thấy mình cũng đang trong tình trạng mê ngủ, bù đầu với những công việc hàng ngày sống theo bản năng mà quên đi những lời Chúa dạy, trong đó điều luật quan trọng nhất là luật yêu thương. Xin Chúa giúp con trong Mùa Vọng biết bỏ đi tính ích kỷ nhỏ nhen sự hờn oán trách móc và khắt khe đối với những người xung quanh, biết quảng đại dành thời gian để cầu nguyện với Chúa và dùng lời Chúa làm kim chỉ nam dẫn đường cho cuộc sống hàng ngày. “Lạy Thiên Chúa, xin phục hồi chúng con, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời, để chúng con được ơn cứu độ”. Xin cho Mùa Vọng này đối với con là một cuộc hành trình trở về để đón nhận niềm vui có Chúa trong cuộc đời, mỗi ngày và mọi ngày trong cuộc đời con. Amen.

Thứ Bảy, 1 tháng 4, 2023

VÌ SAO ĐẠO CÔNG GIÁO LÀ ĐẠO THẬT?

Nguồn: Why Catholicism is the true religion

(Phương Anh dịch)

Gần đây tôi đã gặp một người đàn ông, khoảng sáu mươi lăm tuổi, và sau khi tôi kể cho ông nghe về công việc của mình, ông đã kể lại câu chuyện này: “Khi tôi còn học trung học ở một trường Công giáo, tôi đã từng hỏi một trong các sư huynh rằng, 'Làm sao chúng ta biết được rằng trong tất cả các tôn giáo trên thế giới thì chỉ có đạo Công giáo là đạo thật?” Câu hỏi này lâu nay đã làm tôi băn khoăn, và tôi nóng lòng muốn nghe câu trả lời của vị sư huynh.  Và câu trả lời tôi nhận được là, 'Chúng ta không thể biết.  Chúng ta chỉ có thể dựa vào niềm tin mà thôi.’ Câu trả lời của vị sư huynh khiến tôi hoàn toàn thất vọng.”


Sau khi chúng tôi chia tay, tôi tự hỏi mình sẽ tự trả lời câu hỏi đó như thế nào đây.  Tất nhiên, không có tiêu chuẩn hợp lý, khách quan nào để chúng ta có thể đánh giá các tôn giáo, hoặc nhiều tuyên bố khác vốn không thể kiểm chứng bằng thực nghiệm.  Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta không thể đánh giá các tôn giáo hoặc xác định chân lý của chúng.  Điều chúng ta cần là một “nguyên tắc đầu tiên”, một nền tảng và xuất phát điểm đã được thống nhất, từ đó chúng ta có thể đánh giá chân lý của các tôn giáo.  Nguyên tắc này phải là nội tại đối với bản chất và mục đích của chính các tôn giáo.


Đối với nguyên tắc đầu tiên này, tôi đề xuất rằng chúng ta nên đánh giá các tôn giáo dựa trên mức độ chúng thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển của con người.  Cách tiếp cận này không loại trừ Thiên Chúa, cũng như không hạ thấp tôn giáo thành một phương thức hoạt động tự lực, thuộc thế giới này.  Thay vào đó, nếu chúng ta có thể đồng ý về học thuyết Do Thái-Kitô giáo rằng tất cả con người được tạo ra theo hình ảnh của Thiên Chúa, thì, như Thánh Irenaeus đã nói, chúng ta có thể nói rằng “vinh quang của Thiên Chúa chính là khi con người được sống trọn vẹn” –  và hành động theo đúng mục đích của mình.


Trên nền tảng này – một nền tảng mà mọi người thuộc mọi tín ngưỡng đều có thể đồng ý – tôi tuyên bố rằng Công giáo là tôn giáo chân chính vì nó bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển con người một cách trọn vẹn nhất.  Chúng ta có thể chứng minh tuyên bố này bằng cách nhìn Công giáo theo ba khía cạnh chung cho tất cả các tôn giáo: bản chất của đạo ấy là gì, những giáo lý của đạo ấy ra sao, và đạo ấy hứa hẹn điều gì với chúng ta.


Trải nghiệm của chúng ta về Công giáo bắt đầu với bản chất con người.  Chúng ta biết rằng chúng ta đã được tạo ra tốt đẹp, bởi vì Thiên Chúa không có khả năng làm điều sai trái hoặc xấu xa.  Tuy nhiên, mỗi ngày chúng ta đều phải đối mặt và phạm phải vô số điều sai trái, nhắc cho chúng ta nhớ một cách đau đớn rằng chúng ta thiếu sót, hữu hạn và sa ngã không còn là con người mà Đức Chúa Trời đã định khi tạo ra chúng ta.  Dù cố gắng đến đâu, chúng ta cũng không thể tự mình khắc phục hoặc chuộc lỗi hoàn toàn cho những thất bại của mình;  và ngay cả khi chúng ta có thể tự mình tiến bộ một cách tốt đẹp, chúng ta vẫn gặp phải những tình huống đáng buồn khi những những người tốt lại gặp phải những điều tồi tệ.


Thay vì bỏ mặc chúng ta trong vòng quay của sự tầm thường và khốn khổ, Đức Chúa Trời đã can thiệp trực tiếp vào công việc của con người. Người dần lộ diện theo thời gian, cho đến khi, có lẽ đã chán ngấy với việc chúng ta không thể hiểu được những gì mà Người biểu lộ, Người đã sẵn sàng trực tiếp đến gặp chúng ta với tư cách một con người.  Việc nhập thể của Con Thiên Chúa có hai tác dụng chính đối với loài người: chuộc những tội lỗi mà chúng ta không đủ sức để chuộc cho chính mình, và nêu gương cho chúng ta về cách sống phù hợp với ân sủng của các bí tích để có thể tiếp tục cuộc sống trên trần gian.  Do đó, Công giáo là một tôn giáo của hy vọng: giữa sự nghèo khó của chúng ta, Chúa Kitô, vì yêu thương loài người, “đã trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo khó của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.”  (2 Cô-rin-tô 8:9)


Vì ơn cứu chuộc của chúng ta vốn gắn liền với tấm gương mà Chúa Kitô đã đặt ra, nên các điều răn của Công giáo bắt nguồn trực tiếp từ chính bản chất của nó. Hoàn thiện Lề luật bằng cách bổ sung vào những điều cấm do Luật Cũ thiết lập, Chúa Kitô đã ban một điều răn: hãy yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta.  Do đó, tình yêu này không chỉ là tình cảm hay lời hứa mơ hồ về hòa bình: đó là sự hy sinh hoàn toàn bản thân vì lợi ích của người khác, và nó dường như trái ngược với bản chất sa ngã của chúng ta và cách thức của thế giới.  Nhưng chúng ta thường có thể tìm thấy (nơi những người sống trọn vẹn giới răn này) một niềm vui đích thực mà thế gian không thể cung cấp được.


Niềm vui này là lời hứa mà đạo Công giáo dành cho những ai đón nhận giáo lý và giới răn của mình.  Đó là niềm vui được kết hợp với Đức Chúa Trời, khác xa với tuyên bố buồn tẻ của những người theo chủ nghĩa thế tục rằng "hạnh phúc mà chúng ta cần chỉ có nghĩa là ít đau đớn hơn."  Nhưng nghịch lý thay, Công giáo cho rằng niềm vui đích thực chỉ đến với và qua đau đớn, khổ sở, bắt bớ và thậm chí bị từ chối.  Tất cả các tôn giáo đều quy định những cách đối phó với đau khổ;  chỉ có Công giáo hứa rằng đau khổ dẫn đến sự cứu chuộc.


Trong tất cả các tôn giáo, đạo Công giáo đã chạm đến phần sâu thẳm nhất của thân phận con người.  Học thuyết, luật lệ và những lời hứa của đạo Công giáo đáp ứng ngay tình trạng hiện tại của chúng ta, ngăn chúng ta làm trầm trọng thêm tình hình của mình, và đưa chúng ta đến với Chúa, mục đích cuối cùng của sự tồn tại của con người, không phải qua Con đường thênh thang – một con đường xa lạ với bản chất con người – mà ngang qua Núi Sọ.  Nơi thập giá, chúng ta tìm thấy sự cứu chuộc, và cùng với đó là sự thật về nhân tính của chúng ta.


Những kẻ gièm pha sẽ chỉ ra những tội lỗi của người Công giáo trong nhiều thế kỷ để làm bằng chứng ngược lại.  Nhưng sự lạm dụng không phủ nhận công dụng: công bằng mà nói, chúng ta phải đánh giá tất cả các tôn giáo dựa trên những tuyên bố cũng các như vị thánh [những tấm gương tiêu biếu] của chính tôn giáo ấy  chứ không phải là thông qua những người không sống đúng theo lý tưởng của mình.


Nhưng có lẽ nơi những người tội lỗi, chúng ta nhìn thấy sự thật tối hậu của Đạo Công giáo – tất nhiên, không phải ở những tội lỗi kinh hoàng, mà ở tiếng kêu tuyệt vọng từ nội tâm của họ.  Và để cứu A-đam, "Chúa Kitô, Ađam mới, trong khi mặc khải về Chúa Cha và tình yêu của Ngài, cũng giúp con người hiểu biết đầy đủ về chính mình và nhận ra ơn gọi vô cùng cao quý của mình." (Hiến chế Vui mừng và Hy vọng số 22)./-


Thứ Bảy, 21 tháng 1, 2023

DI SẢN TRÍ TUỆ CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG BENEDICTO XVI

Nguồn: https://www.spectator.co.uk/article/the-intellectual-legacy-of-pope-benedict-xvi

-------
DI SẢN TRÍ TUỆ CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG BENEDICTO XVI

Vì những lý do khá phức tạp để giải thích, trong thời gian hoàn thành bằng tiến sĩ tại Đại học Đức ở Rome vào những năm 1990, tôi thường dùng bữa sáng với người mà lúc ấy còn là Hồng y Ratzinger vào mỗi sáng thứ Năm trong suốt gần ba năm. Những cuộc gặp gỡ ấy ban đầu thường khá khó khăn bởi vì, mặc dù Đức Hồng y luôn lịch sự, nhưng ngài không hề có thói quen nói chuyện vãn và khá vô vọng trong việc bắt chuyện bình thường. Hồng y Ratzinger là một người rất nhút nhát và không dễ dàng giao tiếp.

Do đó, trong những bữa sáng như vậy, tôi sẽ lôi kéo ngài nói về thần học - và lúc ấy ngài bỗng sống động hẳn lên.  Tôi đang viết một luận án về nhà thần học vĩ đại người Đức là Karl Rahner, cũng là một nội dung mà Hồng y Ratzinger đã từng giảng dạy, và vì vậy thật dễ dàng lôi để lôi kéo ngài vào cuộc trò chuyện thần học về các chủ đề của Rahner. Hồng y Ratzinger, trên hết, là một nhà trí thức.  Về bản chất, ngài là một học giả - nhưng còn hơn cả một học giả.  Theo tôi, ngài là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại cuối cùng của thế kỷ 20.

Hồng y Ratzinger thuộc về giai đoạn nở rộ của thần học Công giáo vào giữa thế kỷ 20 - khi Giáo hội may mắn có được một nhóm các nhà thần học và triết gia lỗi lạc, những người đã dẫn dắt và hướng dẫn Giáo hội vượt qua sự thay đổi xã hội sâu sắc đã quét qua châu Âu sau cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai và là những người đã giúp định hình Giáo hội hiện đại sau Công đồng Vatican II.  Với những tên tuổi như Maritain, Gilson, Lonergan, Rahner, von Balthasar, Congar, De Lubac,  Hồng y Ratzinger đều có biết và đã từng làm việc với họ.

Và cũng giống như nhiều người trong số họ, Hồng y Ratzinger là một người đa tài.  Ngài có kiến ​​thức bách khoa toàn thư về văn hóa thế giới, về văn học, kinh thánh và nghệ thuật. Ngài chơi được tất cả các bản sonata dành cho piano của Mozart, trong đó có nhiều bản ngài đã thuộc lòng.

Mãi về sau, khi làm việc trong Bộ Giáo lý Đức tin, tôi đã dạy một khóa học tại Đại học Gregorian ở Rome, dựa trên tác phẩm nổi tiếng của Ngài dưới tên gọi Giới thiệu về Kitô giáo mà bất kỳ ai đã đọc nó đều biết, chỉ là một bản giới thiệu nhẹ nhàng về Kitô giáo. Tôi đã chọn tác phẩm này bởi vì tôi đã được thuyết phục, và vẫn thấy như vậy, rằng trong tác phẩm đầu tay này của ngài, người ta có thể nhìn thấy dấu hiệu của sự xuất sắc thực sự. Có rất ít các nhà tư tưởng ở bất kỳ thời đại nào thực sự có điều gì đó mới mẻ để nói - và Hồng y Ratzinger chính là một trong số ít những nhà tư tưởng thực sự đó.

Thật không may (xét theo một cách nào đó) sự phát triển về trí tuệ của Ratzinger đã bị cắt ngắn khi Giáo hoàng Paul VI bổ nhiệm ngài làm Tổng Giám mục Munich vào năm 1977. Hồng y Ratzinger không bao giờ muốn trở thành giám mục và ngài không bao giờ tìm kiếm sự thăng tiến trong giáo hội.  Vì tính nhút nhát của mình, ngài không bao giờ thích khía cạnh xã hội của việc trở thành một giám mục và thời gian trôi qua, ngài nhận thấy những tai tiếng xung quanh đã làm cho mình thật đau đớn.

Nhưng Ratzinger là một người của Giáo hội, và ngài đã làm những gì được yêu cầu - vì vậy, ba năm sau, khi Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đề nghị ngài trở thành Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, ngài đã đồng ý ngay lập tức.  Trong vai trò này, nhiệm vụ của Hồng y Ratzinger là xây dựng đức tin Công giáo và làm rõ ranh giới của tư tưởng Công giáo và ngài đã làm điều này với sự rõ ràng và sáng suốt vô song.  Đôi khi, nhiệm vụ của ngài là nói những điều không được nhiều người ưa chuộng và điều đó gây khó chịu cho những người theo chủ nghĩa tư tưởng đang thịnh hành vào thời ấy.  Nhưng đó là công việc của ngài và ngài đã làm điều đó với sự ân cần và nhân hậu nhất có thể có trong vai trò đó.

Thật không may, trong những năm qua, nhiều nhà bình luận, những người không thể tham gia vào cuộc tranh luận hoặc đối thoại thực sự về những vấn đề như vậy, chỉ đơn giản là dùng đến lời nói xúc phạm, và do đó, bức tranh biếm họa đã xuất hiện trên các phương tiện truyền thông về 'Hồng y Panzer [Panzer trong tiếng Đức có nghĩa là "áo giáp"], người cai trị Giáo hội' bằng nắm đấm sắt trong chiếc găng tay nhung.  Đối với chúng tôi, những người biết ngài, bức tranh biếm họa này hoàn toàn trái ngược với thực tế đến mức nó đã và đang trở thành nên lố bịch. Hồng y Ratzinger, giống như nhiều trí thức chân chính, rất tự tin vào ý kiến ​​của mình và luôn tò mò muốn hiểu ý kiến ​​của người khác. Ngài luôn cởi mở để thảo luận và không bao giờ từ chối cơ hội tranh luận.  Trong tất cả những gì tôi biết về ngài và trong tất cả những năm làm việc với ngài, tôi chưa một lần thấy ngài trở nên bối rối hoặc hung hăng.  Ngài không bao giờ lên mặt ta đây trong cuộc thảo luận, và ý tưởng về việc Ratzinger cao giọng với người khác quả là vô lý đối với những ai biết ngài.

Tôi chưa bao giờ gặp một ai thực sự biết Hồng y Ratzinger mà lại không yêu mến ngài.  Tôi đã học tiếng Đức tại Munich vào những năm 1980 và khá ngạc nhiên trước tình cảm mà những người dân của thành phố rất thế tục đó dành cho ngài.  Tại Đại học Đức ở Rome vào những năm 1990, tôi đã bị choáng ngợp bởi việc có hàng trăm khách hành người hương Đức đến vào thứ Năm hàng tuần để được cử hành thánh lễ với ngài lúc 7 giờ sáng. Khi tôi đến Bộ Giáo lý Đức tin vào những năm 2000, tôi thấy ngài được mọi người đối xử một cách gần như tôn kính; cả giáo triều kính trọng ngài vì tính chính trực, trung thực và thông minh của ngài.

Ngài là một người có đức tin sâu sắc.  Các tác phẩm tâm linh của ngài (bao gồm Tìm kiếm nước trời, Giáo điều và giảng thuyết, Tìm kiếm khuôn mặt của Chúa, và Người phục vụ niềm vui của bạn) rất đẹp bởi vì chúng xuất phát từ kinh nghiệm của ngài về tình yêu của Chúa và sự hiểu biết sâu sắc của ngài về thánh thư.

Nhưng trên hết di sản của Hồng y Ratzinger  là về trí tuệ - ngài là một nhà thần học có ảnh hưởng tại Công đồng Vatican II;  ngài ham gia vào cuộc tranh luận về niềm tin và lý trí, ủng hộ giá trị của đức tin trong thời đại mà chủ nghĩa tương đối đã bám rễ vào cuộc sống; và ngài đã cố gắng tập trung lại vào việc chú giải kinh thánh Công giáo thông qua một lăng kính mới (xem bộ sách Chúa Jesus người Nazareth gồm ba tập của ngài).  Cuối cùng, thông qua tất cả các công trình thần học của mình, ngài đã tìm cách cho thấy Chúa Giêsu Kitô là trung tâm của mọi sự và đưa ra phương hướng cũng như một chân trời rộng lớn hơn cho con người trong một thời đại bị bao vây bởi sự tầm thường hóa cuộc sống và việc liên tục hạ thấp con người thành một thứ gì đó thấp kém hơn những gì Đức Kitô đã mặc khải rằng chúng ta có thể trở thành.

Sự đóng góp của Hồng y Ratzinger cho đời sống của Giáo hội là rất lớn.  Ngài không phải là một nhà quản trị giỏi và giống như tất cả chúng ta, ngài đã phạm sai lầm.  Nhưng ngài là một người thực sự vĩ đại, và sự ra đi của ngài thực sự là một mất mát cho thế giới và cho Giáo hội.
------
Cha Patrick Burke là linh mục quản xứ tại Tổng giáo phận St Andrews và Edinburgh.

(PA dịch)