Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2024

Hành trình đức tin luôn sống động (First Things, 13/8/2024)

DẪN

Nhà thờ ngày càng vắng, ngày càng nhiều người trẻ tự nhận mình không theo một tôn giáo nào, số lượng giáo dân được ghi nhận ngày càng giảm... đó là tình trạng của hầu hết các nước phương tây hiện nay, nơi Kitô giáo (với nhiều hệ phái khác nhau) là tôn giáo chính. Phải chăng xã hội phương tây ngày nay đã trở nền (gần như) hoàn toàn tục hóa, nơi người ta không còn cần đến Thiên Chúa nữa? Hay ngược lại, chính sự bỏ đạo lại là dấu hiệu cho thấy con người ngày nay cần Thiên Chúa hơn bao giờ hết, và vì vậy không thể dễ dàng chấp nhận một đức tin được di truyền từ đời này sang đời kia mà không cần có chút gì liên quan đến cuộc sống hàng ngày của họ?

Câu trả lời có thể tìm thấy trong bài viết này, dựa trên một nghiên cứu khoa học về những biến chuyển trong hành trình đức tin của mỗi con người.


----------------------------------

Khi lời tiên đoán về ngày tận thế của giáo phái Nhân chứng Giê-hô-va về ngày tận thế đã không xảy ra vào năm 1975, Gudrun và Werner, cặp đôi trẻ đến từ Đức, đã trao đổi với nhau về những sự nghi ngờ ngày càng tăng và cuối cùng đã chọn rời khỏi cộng đồng đức tin của mình. Nhiều thập kỷ trôi qua, và vào năm 2003, họ tham gia vào một nhà thờ thuộc hệ phái n điển Thánh linh. Mười năm sau, họ nói với các nhà nghiên cứu rằng họ cũng đã rời khỏi nhà thờ đó, nhưng vẫn tự đọc Kinh thánh hoặc, trong trường hợp của Gudrun, đã tham gia vào một buổi học Kinh thánh dành cho phụ nữ.

Câu chuyện của cặp đôi này, được trình bày chi tiết trong tác phẩm Giai điệu chủ đạo trong câu chuyện cuộc đời (Leitmotifs in Life Stories) của tác giả Ramona Bullik, minh họa cách đức tin phát triển trong suốt cuộc đời theo những cách khác thường không giống như những câu chuyện mà ta thường nghe. Người ta rời bỏ tôn giáo, rồi quay trở lại, rồi lại bỏ. Hơn nữa, nhiều người có thể rời khỏi các nhóm tôn giáo trong những giai đoạn nào đó trong đời, nhưng không nhất thiết trở thành người vô thần.

Cuốn sách của Bullik kể lại những câu chuyện của Gudrun và Werner cùng với bảy người khác. Câu chuyện của bà dựa trên nghiên cứu của các nhà tâm lý học Heinz Streib và Ralph J. Hood, những người đã phỏng vấn hàng trăm người tại Hoa Kỳ và Đức đã rời bỏ cộng đoàn tôn giáo của mình. Nghiên cứu theo chiều dọc đầu tiên của họ trong hơn 20 năm gần đây đã hoàn thành đợt phỏng vấn thứ tư theo cùng một nhóm người.

Streib đã theo học với nhà thần học James Fowler và sử dụng lại cuộc phỏng vấn của ông về hành trình phát triển của đức tin. Nhưng nghiên cứu của Streib đã khiến ông mô tả đức tin theo cách khác. Trong mô hình của Fowler, con người sẽ trải qua các giai đoạn phát triển của tâm linh . Streib phản bác, "Để nói rằng con người càng già đi thì đức tin của họ càng phát triển thì quá dễ”. Những nghiên cứu về sự khôn ngoan đã chỉ ra rằng con người không nhất thiết trở nên khôn ngoan hơn khi họ già đi.

“Tôi không thể đơn giản nói rằng có những bước đi rõ ràng … hoặc một quỹ đạo xác định cho tất cả mọi người trong suốt cuộc đời. Bởi vì có rất nhiều hoàn cảnh đa dạng, và khi một người gặp phải những khủng hoảng hoặc hoàn cảnh sống khác biệt, người ấy có thể sử dụng những cách thức khác nhau để đối phó với những thách thức đó”, ông nói.

Hood đưa ra ví dụ sau: Nếu bạn đưa con đến bác sĩ nhi khoa, bác sĩ có thể hỏi về kỹ năng vận động của con bạn. Con đã biết bò chưa? Con đã cố gắng tự đứng dậy chưa? Con có cố gắng bước đi trong khi bám vào đồ đạc không? Nhưng một khi con bạn biết đi, phải chăng điều đó có nghĩa là bạn sẽ không bao giờ thấy con mình bò nữa? Không phải thế. Trên thực tế, trong một vụ cháy nhà, lính cứu hỏa sẽ yêu cầu những người lớn quỳ xuống và bò ra ngoài.

Tiếp tục ví dụ trên, sau vụ hỏa hoạn - tất nhiên nếu không ai bị thương tích gì - họ sẽ đi trở lại bình thường, để có thể đi xa hơn. Tương tự như vậy, Streib cho biết những người thay đổi tôn giáo của họ không phải lúc nào cũng thực sự mất hết đức tin - họ vẫn đang phát triển về mặt tâm linh, đôi khi theo một cách khác và đôi khi họ tìm được cách để ở lại.

Đối với Gudrun, cuộc hôn nhân của bà với Werner đã tác động rất lớn đến hành trình tôn giáo của bà. Trong khi bà tự mô tả mình là một tín đồ ngoan đạo của hệ phái thời thơ ấu của bà - và bà gặp chồng mình thông qua giáo phái Nhân chứng Giê-hô-va - thì Werner vẫn luôn có những sự hoài nghi. Ông mô tả tình trạng khủng hoảng của mẹ mình ở Đông Đức sau Thế chiến II là nguyên nhân thúc đẩy bà tham gia vào giáo phái Nhân chứng Giê-hô-va; chính giáo phái này đã giúp họ chạy trốn sang Tây Đức. Khi còn trẻ, Werner đã muốn tách mình khỏi nhóm, nhưng sau đó chính từ nơi này ông đã gặp vợ mình. Cuối cùng, chính Werner đã tìm kiếm những góc nhìn khác và cuối cùng đã thúc đẩy Gudrun nhìn nhận những thiếu sót của nhóm giáo phái này như lý do để họ rời đi.

Werner mô tả những sự chuyển đổi trong cuộc sống đức tin của mình một cách thực tế: sau khi rời khỏi giáo phái Nhân chứng Giê-hô-va, họ đã gia nhập Giáo hội Tin lành địa phương vì con gái họ đã chào đời. Khi vị mục sư chuyển đến một cộng đoàn khác, họ đã tìm thấy một cộng đoàn mới - thuộc hệ phái n điển Thánh linh. Gudrun thấy mình thật thoải mái trong truyền thống mới này, dễ dàng chấp nhận các nghi lễ và niềm tin của một hệ phái tràn đầy linh hứng. Lúc đầu Werner rất nhiệt tình, nhưng sau đó cảm thấy nhàm chán về mặt trí tuệ. Ông đã tìm thấy sự thức tỉnh về thần học qua việc xem xét niềm tin của mình bằng lăng kính khoa học và so sánh Kinh thánh với các tác phẩm cổ khác, chẳng hạn như tiếng Assyria hoặc tiếng Ai Cập.

Thay đổi căn tính tôn giáo

Các nhà tâm lý học Neal Krause và Gail Ironson cũng đã cân nhắc sự thay đổi tôn giáo theo thời gian, xem xét liệu mọi người có nhất quán xác định mình là người theo một tôn giáo cụ thể, hoặc không theo tôn giáo nào nhưng có khuynh hướng tâm linh, hay hoàn toàn chẳng có chút niềm tin nào. Trong nghiên cứu hai đợt của họ, một phần tư số người tham gia nghiên cứu đã thay đổi danh xưng về tôn giáo của mình trong khoảng thời gian bảy năm. Dữ liệu nghiên cứu mặc dù cũng có một số hạn chế, nhưng nhìn chung có thể thấy rằng càng già đi thì mọi người càng ít có khả năng thoát khỏi căn tính tôn giáo của mình. Cuối cùng, Krause và Ironson kết luận rằng căn tính tôn giáo và tâm linh là một cái gì đó thường xuyên biến đổi, và bất kỳ lúc nào cũng có những n gười đang định hình lại đức tin của mình.

Sau khi rời khỏi nhiều hệ phái khác nhau, Werner, ở tuổi 79, không còn tuân theo những cách giải thích Kinh thánh theo nghĩa đen và cảm thấy không còn phụ thuộc vào các tôn giáo có tổ chức. Ông quan niệm việc "theo đạo" thoáng hơn rất nhiều - điều đó đơn giản chỉ là sự tham gia tìm kiếm những câu hỏi về cùng đích của cuộc đời. Ông từ chối một hình ảnh hẹp hòi về Thiên Chúa, trong đó Ngài là một đấng để trừng phạt sự sai trái, và ông cũng không còn tin rằng Ngài là đấng “toàn năng". Tuy nhiên, ông tin vào một Thiên Chúa nhân từ trong hình ảnh của Đức Giêsu, đấng luôn có sự đồng cảm xót thương xót đối với loài người.. Ông không tuân theo một hệ thống tín lý nào, nhưng trong lòng luôn có sự thôi thúc tìm kiếm chân lý, và người vợ ngoan đạo đã trở thành điểm tựa duy nhất cho ông, vì ông không hề tham gia vào đời sống cộng đồng của bất kỳ tôn giáo nào.

Ở tuổi 83, Gudrun chọn một hướng đi đức tin hơi khác. Không còn duy trì việc thực hành đức tin trong một cộng đồng sùng tín như trước đây, dường như bà hơi tiếc nuối về điều này và vẫn duy trì mối liên hệ với một nhóm nghiên cứu Kinh thánh dành cho phụ nữ. Bà ít quan tâm đến việc người khác “dán nhãn” cho đức tin của mình như thế nào. So với những năm tháng thời trẻ, bà đang thấy mình hài lòng hơn với niềm tin của mình vào Thiên Chúa và vào Chúa Giêsu. Bà nói đến ảnh hưởng của một nhà thần học Công giáo đối với mình, và mô tả niềm tin của mình vào Chúa như sau: "Điều mà Giáo hội cần nhận ra là phải từ bỏ vị Chúa nghiêm khắc trừng phạt và nhận ra rằng Ngài là một vị Chúa của tình yêu vô hạn. […] Điều đó hoàn toàn thuyết phục đối với tôi."

Những bài viết trên truyền thông không đúng

Đối với Hood, những bài viết không đủ tinh tế về sự bỏ đạo có thể dẫn đến sự hiểu lầm rằng nền văn hóa của chúng ta ngày càng trở nên thế tục hơn khi có người rời bỏ một nhóm tôn giáo nào đó. Theo nghiên cứu của các tác giả, không phải là khi người ta rời bỏ một niềm tin thì sẽ đương nhiên trở thành vô thần. Một số người vẫn duy trì niềm tin tâm linh. Đối với một số người, khi đức tin của họ phát triển thông qua những hành động nhìn bên ngoài có vẻ như là bỏ đạo, thì lúc đó họ đang tự đào sâu hơn về đức tin, chứ không phải trở nên thế tục hơn.

Những phát triển tâm lịnh này có thể xuất hiện trong những gì nằm ngoài căn tính tôn giáo thông thường—ví dụ, sự quan tâm của Werner đến các tác phẩm cổ xưa khác hoặc với khoa học hiện đại. Đối với những người khác, việc thực hành yoga hoặc thiền định. "Nhiều người tìm kiếm một diều gì khác", Streib nói.

“Họ có thể không gọi đó là tôn giáo. Họ có thể tìm từ ngữ khác để diễn đạt. Họ có thể gọi đó là tâm linh.”

Nguồn: External link