Năm 2017 là dịp kỷ niệm 50 năm ra đời của Thông điệp Phát triển các dân tộc của ĐGH Phaolô VI. Nhân dịp này, chúng ta cùng nhau học hỏi nội dung thông điệp, đồng thời xem xét lại những gì đã đạt được trong 50 năm qua, và những gì cần phải tiếp tục phấn đấu hoặc điều chỉnh cho phù hợp với thời đại mới.
Trước hết, xin giới thiệu bài viết giới thiệu Thông điệp của Học viện Đa Minh, Toàn văn thông điệp (bản dịch) có thể được tìm thấy trong cùng địa chỉ của nguồn bài viết giới thiệu nói trên, link bên dưới.
----------
Nguồn: http://www.catechesis.net/index.php/van-kien-giao-hoi/duc-giao-hoang/thong-diep/453-thong-diep-populorum-progressio-phat-trien-cac-dan-toc-cua-dgh-phaolo-vi-ngay-26-03-1967
Trước hết, xin giới thiệu bài viết giới thiệu Thông điệp của Học viện Đa Minh, Toàn văn thông điệp (bản dịch) có thể được tìm thấy trong cùng địa chỉ của nguồn bài viết giới thiệu nói trên, link bên dưới.
----------
Nguồn: http://www.catechesis.net/index.php/van-kien-giao-hoi/duc-giao-hoang/thong-diep/453-thong-diep-populorum-progressio-phat-trien-cac-dan-toc-cua-dgh-phaolo-vi-ngay-26-03-1967
THÔNG ĐIỆP POPULORUM PROGRESSIO
(PHÁT TRIỂN CÁC DÂN TỘC)
CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHAOLÔ VI
VỀ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN CÁC DÂN TỘC
NGÀY 26 THÁNG 03 NĂM 1967
***

Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô VI
***
GIỚI THIỆU THÔNG ĐIỆP
Thông điệp “Phát triển các dân tộc” (Populorum progessio) của Đức Phaolô VI xuất hiện trong dịp lễ Phục Sinh năm 1967 (26/03) để mang đến ánh sáng của Tin Mừng và của sự Phục sinh cho các vấn đề xã hội của thời đại. Thông điệp trực tiếp đưa ra lời mời gọi thay đổi tầm nhìn. “Ngày nay sự kiện quan trọng mà mỗi người đều phải ý thức, đó là vấn đề xã hội đã trở nên mang tính toàn cầu”. Vấn đề đã mở rộng đến tầm mức hoàn vũ, nhưng cũng có kèm theo những hệ lụy liên quan đến cá nhân từng người trong bối cảnh quốc tế những năm 60 và khoảng thời gian sau Công đồng Vatican II.
Bối cảnh xã hội trên toàn cầu thập niên 60
Có rất nhiều hiện tượng lớn lao đánh dấu thời kỳ này và tạo nên một hậu cảnh cho Thông điệp.
Trước hết là sự kiện giải phóng các thuộc địa, sẽ lan rộng ra trong khoảng 20 năm, dẫn tới sự độc lập chính trị của nhiều quốc gia mới và trẻ trung, và Liên Hiệp Quốc phát triển về số lượng thành viên. Trong giai đoạn chuyển mình đó, các quốc gia ấy đối mặt với các cường quốc lớn, trong những tương quan lực lượng đã thay đổi.
Để không trở thành trò lừa bịp, sự độc lập về chính trị đòi phải có một sự độc lập về kinh tế tối thiểu. Làm thế nào để sống trong công bằng, liên đới, trong sự tôn trọng lẫn nhau trong các quan hệ quốc tế mới nhằm ưu tiên phát triển các dân tộc đó cũng như cho họ được hưởng cách công bằng những tài nguyên có sẵn, tự nhiên cũng như do chế biến mà không quên những thiện ích về sức khoẻ, về giáo dục...
Trong suốt thập niên 50 và 60, những nước phát triển đã tăng trưởng môt cách mạnh mẽ về kinh tế và mở rộng đường cho những trao đổi thương mại, với mức sống được nâng cao, đầy dẫy những nhu cầu mới, cuộc sống ổn định sung túc, nếu không nói là dư giả. Nhiều dân tộc hoàn toàn trở nên giàu có. Trong lúc đó, nhiều dân tộc khác lại kém phát triển và lệ thuộc, mà dân số lại gia tăng mạnh mẽ. Như thế, những vùng nghèo dù tương đối hay tuyệt đối, lại càng nhiều hơn. Tình trạng chênh lệch này, đặc biệt giữa các dân tộc giàu và các dân tộc nghèo là một tình trạng không chấp nhận được như một ngòi nổ, Đức Phaolô VI tố giác tình trạng đó nhân danh tình liên đới nhân loại phổ quát và sự công bằng. Ngài kêu gọi mỗi người hãy ra sức sửa chữa lại tình trạng đấy. Thông Điệp mở đầu và kết thúc với cùng một tiếng kêu ngôn sứ, lo sợ và khẩn thiết (Số 4 và 87).
Trong những năm 50 và 60, người ta xúc tiến việc hợp tác quốc tế nhằm đáp ứng thách thức của cuối thế kỷ XX đó. Phát triển tổ chức FAO (Về nông nghiệp và lương thực); Khai sinh ra CNUCED (Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển). Thập kỷ phát triển thứ nhất (1960 –1970); Chương trình hỗ trợ song phương và đa phương. Làm thế nào để Giáo hội và các Kitô hữu tham gia vào những sáng kiến này và làm cho chúng nên hữu hiệu hơn nữa?
Dù cho có những hoàn cảnh khó khăn, đôi khi đạt đến cực điểm (Vụ tên lửa Cuba), giữa hai cường quốc lớn, người ta cũng cố thiết lập tình trạng hòa hoãn giữa Đông và Tây, tuy vẫn không ngừng “Chạy đua vũ trang đến mức kiệt cạn”. Hy vọng được nhóm lên vì lẽ sự phát triển liên đới của các dân tộc trở nên điều bảo đảm tốt nhất cho hòa bình thế giới. Đức Phaolô VI đã phát biểu như thế tại Liên Hiệp Quốc năm 1964 một cách mạnh mẽ và bức xúc; ở đây Ngài lập lại như một niềm xác tín dựa trên “Phát triển là tên gọi mới của hòa bình” ( Số 76).
Giáo hội của Vaticanô II
Dù cho bắt nguồn từ thông điệp Mater et Magistra (1961) của Đức Gioan XXIII, là tài liệu đã bàn đến những quan hệ giữa các nước phát triển và các nước kém phát triển (MM số 157-185), thông điệp này của Đức Phaolô VI là một hệ quả trực tiếp của Công Đồng Vaticanô II, theo 3 cách:
Trước hết, Công đồng đã tiếp đón các Giám Mục thuộc mọi miền trên thế giới; Những hàng Giáo phẩm bản địa, được thiết đặt sớm và vào lúc được độc lập chính trị, cũng hiện diện và có tiếng nói của mình. Trong quá trình soạn thảo Hiến Chế Mục Vụ “Giáo hội trong thế giới ngày nay”, các Giám mục Á châu, Phi châu, Mỹ châu La tinh, vì e ngại văn kiện thiên về Tây phương chỉ quan tâm đến những vấn đề của các nước phát triển đã nhấn mạnh rằng, ngay từ đầu trong phần trình bày về những mất quân bình của thế giới hiện nay, phải làm nổi bật lên những “chênh lệch” giữa các nước giàu, các nước ít giàu hơn và các nước nghèo (GS 8) và việc phân phối của cải không công bằng; Những chủ đề được nhắc lại nhiều lần (GS 29,63,83).
Hơn nữa, Công Đồng đã bày tỏ mong ước thành lập một cơ quan thường trực của Giáo hội để theo đuổi những vấn đề được đặt ra bởi công cuộc phát triển. Đó sẽ là việc làm của Đức Phaolô VI: Thiết lập ủy ban Giáo hoàng “Công lý và Hòa Bình” đi liền với thông điệp (GS 90, 3; PP 5).
Sau cùng, Công Đồng giúp Giáo hội tự ý thức về mình tốt hơn nữa cũng như ý thức về trách nhiệm của mình trong việc biến đổi thế giới. Mối quan hệ của Giáo hội với thế giới được soi sáng bởi hiến chế Gaudium et Spes. Đức Phaolô VI sẽ đem ứng dụng vào việc phát triển các dân tộc (pp số 12 đến 22); ngài sử dụng lại những từ ngữ của Công Đồng: Giáo hội, chuyên viên về con người, theo dõi các “dấu chỉ của thời đại” và tự đặt mình vào vị thế phục vụ cho con người bằng những phương thế đặc biệt và trong một nhãn giới toàn cục về lịch sử. Đức Phaolô VI đã nói minh nhiên ở phần đầu thông điệp. “Thời gian ngay sau Công Đồng chung Vatican II, nhờ ý thức mới mẻ về sứ điệp Tin Mừng, Giáo hội thấy mình có bổn phận làm người phục vụ cho con người nhằm giúp họ nắm bắt hết mọi chiều kích của vấn đề hê trọng này và nhằm thuyết phục họ cấp bách phải liên đới với nhau vào thời kỳ bước ngoặt quyết định này của lịch sử nhân loại.” (PP 1)
* Các nguồn
Ngoài những văn kiện của Vatican II, đặc biệt là Gaudium et spes, là nơi thông điệp chính yếu múc lấy cảm hứng của mình, những nguồn tài liệu khác đều thuộc về Đức Phaolô VI.
Trước hết, những tham chiếu Kinh thánh, có rất nhiều, đã làm cho văn kiện mang đậm sắc Tin Mừng; tất cả những dụ ngôn về người giàu và người nghèo đều được nhắc tới; và sức mạnh của lời chất vấn ngôn sứ thu hút sự chú ý của mọi người và mỗi người hướng đến những tình thế không thể chấp nhận được nữa, sự phán xét của Thiên Chúa được chuẩn bị và sẽ tỏ lộ! Do đó, để loan báo trước sự phán xét ấy, một lời kêu gọi chung nhất được gởi tới “Hết mọi người và hết mọi dân tộc hãy đảm nhận lấy trách nhiệm của mình” (PP số 80). Khác với những Thông Điệp trước, đường lối của giáo huấn xã hội này của Giáo hội đi tới một cam kết trực tiếp hơn, nhân danh Tin Mừng, mà không thông qua những diễn dịch triết học - dù cho nó có vay mượn ngữ vựng của một thứ triết học nào đó (“hiện hữu” và “sở hữu”) - cũng không vòng qua quyền tự nhiên thuần túy.
Một điểm mới nữa, đó là Đức Phaolô VI đã tham khảo tới công trình của các nhà thần học, triết học, các chuyên gia và nhắc đến họ một cách minh nhiên. các Cha như: Lubac và Chenu, Đức Cha Larrain (Chilê), J. Maritain và nhất là Cha Lebret, người sáng lập ra “Kinh tế và chủ nghĩa Nhân Bản” là những người mà Thông Điệp cậy nhờ đến rất nhiều: họ giúp cho biết nhạy cảm hơn với các vấn đề, với các cách diễn đạt, với những giải pháp khả dĩ; trong Thông Điệp ta cũng còn thấy những yếu tố của tư tưởng của nhà kinh tế học F. Perroux. Suy tư còn để mở ngỏ. Dẫu sao, Thông Điệp, trước hết là mọt lời kêu gọi (ý thức và mời gọi hành động), không trực tiếp đóng vai trò như một sưu liệu rộng rãi, đôi khi mang tính kỹ thuật như mười lăm năm qua đã tập trung vào những vấn đề phát triểnvà quan hệ giữa các nước giàu và các nước nghèo. Đây trước hết là một cái nhìn, một cảm nhận, một trình bày với những nét lớn khiêm tốn có tính độc đáo biểu hiện hoàn cảnh chung. Những “dữ kiện của vấn đề” chiếm một chỗ giới hạn (vài đoạn ngắn từ số 6 đến số 12), với tầm nhãn giới mở rộngvà nhấn mạnh đến những điểm cấp thiết: khát vọng của con người (số 6), thực dân và chủ nghĩa thực dân (7), sự chênh lệch gia tăng (8), tăng triển lương tâm (9), va chạm giữa các nền văn minh (10), và cuối cùng là một lời cảnh báo về những mối nguy hiểm trầm trọng có thể phát sinh từ những hoàn cảnh đó (11).
Nguồn mạch sau cùng có tính cách cá nhân: đó là những chuyến du hành của Đức Phaolô VI trước và trong triều đại Giáo hoàng của ngài, đến châu Mỹ Latinh, Châu Phi, Ấn Độ, Cận Đông và đến Liên Hiệp Quốc. Đức Phaolô VI, vốn không phải là người của đám đông lớn, đã được khắc ghi bởi những gì Ngài đã thấy, đã nghe, đã chạm tới trong thời gian những lần di chuyển nhanh chóng đó. Nhờ đó, Ngài có thể phát biểu bằng những lời lẽ cụ thể với từng độc giả dưới hình thức tự vấn của một lương tâm đã canh tân (47) và lời kêu gọi thay đổi tùy theo lãnh vực của người vai chính và lãnh vực mà họ trách nhiệm. Trong chương cuối, ngài lần lượt nói với những người Công Giáo, những Kitô hữu, những kẻ tin, với những người thiện chí, với các viên chức Nhà Nước, với các hiền nhân, và cũng nói với những người trẻ, những chuyên viên...
* Cấu trúc và lý luận
Phát triển, là ý tưởng chủ đạo của Thông Điệp, bảo đảm tính thống nhất của Thông Điệp; nhiều tính từ được đưa ra để thử xác định nội dung của nó: nó phải đúng, đầy đủ, trọn vẹn, có tính liên đới... Nó vượt xa hơn chứ không chỉ đơn thuần là sự tăng triển kinh tế, tuy tăng triển ấy là cần thiết và những kết qủa của nó phải được phân phối công bằng giữa các dân tộc. Nhưng cái đích nhắm sâu xa là sự phát triển của con người, của toàn thể con người và của mọi người, nhắm đến “hiện hữu” của con người hơn là “sở hữu”.
Hai phần đã tạo nên cấu trúc văn kiện và, nhờ tiêu đề, chúng cho thấy những dòng khẩu hiệu hành động: “vì một sự phát triển toàn diện của con người” (phần I, khía cạnh con người cá nhân) và “hướng đến sự phát triển nhân loại trong tình liên đới” (phần II, khía cạnh tập thể nhiều hơn); và ta nhận thấy trong hai kiểu thức này, cái sắc thái riêng của những từ ngữ được dùng: vì, một, toàn diện, (tiêu đề 1) và hướng đến, sự liên đới (tiêu đề 2).
Nhân học Kitô giáo về phát triển trở thành ơn gọi của con người (15); con người đó đem thực hiện những năng lực của trí tuệ, tự do và hành động mà Thiên Chúa đã phú cho. Trong sự phát triển, có những ngưỡng cửa mà con người phải vượt qua để có thể trở nên là người hơn (số 20 và 21), với cả một thang những giá trị để đánh giá các giai đoạn này.
Khái niệm phát triển các dân tộc không dễ gì xác định. Tại khởi điểm, có một cái ngưỡng phải vượt qua (cuộc đấu tranh chống cái đói) và những mức sống tối thiểu phải đạt cho được, đáp ứng những nhu cầu cốt yếu (sức khỏe, việc làm, giáo dục...); kế đến là sự thăng tiến về mặt xã hội, chính trị và văn hoá trong sự tôn trọng những nét đặc thù của từng dân tộc, sau cùng là cùng thỏa thuận chung quanh các giá trị luân lý. Công cuộc phát triển các dân tộc này phải được khai sinh từ mong muốn có một tình liên đới giữa mọi người, nhờ việc thăng tiến công lý và tình huynh đệ; nó được đặt trong khuôn khổ những mối quan hệ quốc tế, với mong ước sự hợp tác quốc tế sẽ đạt tới mức tạo lập được một trật tự pháp lý cả thế giới công nhận (78) và thậm chí xây dựng được - như Đức Gioan XXIII đã nói đến trong Thông Điệp Pacem in Terris - “một quyền lực quốc tế hữu hiệu”. Chính trong viễn cảnh lớn lao như thế mà công cuộc phát triển sẽ phục vụ cho nền hoà bình thế giới và sẽ mang cùng tên gọi đó (76).
Để tiến gần đến những niềm hy vọng này, Đức Phaolô VI, vượt qua những tranh luận ý thức hệ về các cơ cấu xã hội mà mỗi quốc gia tự chọn cho mình; nhấn mạnh đến những việc phải làm và đề nghị thành lập những tổ chức (Qũy phát triển thế giới). Ngài mau chóng đụng chạm tới vô số vấn đề của con người liên quan đến phát triển: dân số, xoá nạn mù chữ, lao động nhập cư, kế hoạch hóa, đón nhận các sinh viên... Chấp nhận sự đa dạng, đồng thời nhắc đến vài tư tưởng nền tảng về quyền sở hữu, về lao động, về cám dỗ bạo động...
Một vấn đề độc đáo và thời sự được bàn tới một cách sâu xa hơn: sự công bằng đối xử trong những quan hệ thương mại quốc tế (57 đến 66), với việc nghiên cứu về những cách thức trao đổi mua bán với giá cả hợp lý và về những điều kiện để xây dựng hợp đồng công bằng.
Những vấn đề khó khăn này, trong khoảng thời gian ấy, đã được đề cập đến tại các hội nghị Liên Hiệp Quốc về thương mại và phát triển (1964, 1968, 1972,...) mà Tòa Thánh có tham dự.
* Tầm mức và ảnh hưởng
Thông điệp về “Phát triển các dân tộc” đã được đón nhận một cách tích cực không những với các nhà chức trách về chính trị và kinh tế, mà còn bởi các tổ chức tư nhân và công luận. Nó khích lệ và định hướng cho các Kitô hữu đang dấn thân trong công tác phát triển; nó khơi dậy những ơn gọi mới mẻ và nhắc mỗi người ý thức trách nhiệm của mình khi đứng trước thách thức lớn của giai đoạn cuối thế kỷ XX này. Thông Điệp đã góp phần mở rộng tầm nhìn. Không đưa ra những giải pháp hoặc mô hình có sẵn, mà chỉ đề nghị những hướng đi và khơi dậy những động cơ hành động. Hẳn nhiên, để trở nên khả thi, những khuyến dụ này cần phải được trải qua một cuộc phân tích chặt chẽ nhiều hoàn cảnh khác nhau và những nguyên nhân của tình trạng kém phát triển. Kế đến vấn đề còn lại là lựa chọn những mục tiêu cần đạt được và những chiến lược phát triển để theo đó mà thi hành, đồng thời phải xét tới những cản trở và các giai đoạn, liên hệ tới biến chuyển thời cuộc quốc tế: khủng hoảng kinh tế; biến chuyển về những tương quan lực lượng trong những lãnh vực kỹ thuật công nghệ, tài chánh, quân sự...; những thay đổi về cách suy nghĩ và việc thích ứng giữa các nền văn hoá... thiện chí thôi thì không đủ, kể cả khi có những dự án hào phóng nhất cũng thế thôi, nếu thiếu cố gắng liên hệ thực tế.
Năm 1967, những lời ngôn sứ này của Đức Phaolô VI đã được phát đi; nó đã được nhiều người đón nhận; đã nảy mầm và triển nở thành rất nhiều sáng kiến, những sáng kiến ấy, nếu muốn hữu hiệu và được triển khai rộng cần phải xét tới những chuyển biến thời cuộc, những khó khăn do hoàn cảnh, và cả kinh nghiệm nữa, đã làm thay đổi theo thời gian những hoài bão trong thực tại.
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét