Chủ Nhật, 14 tháng 4, 2024

Những điều đúng đắn trong Tuyên ngôn 'Phẩm giá vô hạn

Những điều đúng đắn trong Tuyên ngôn 'Phẩm giá vô hạn'

(Đăng trên The Catholic Thing, Thứ Sáu, 12/4/2024)

Tác giả: Michael Pakaluk, Phương Anh dịch

“Phẩm giá vô hạn”, tên của Tuyên ngôn mới đây về phẩm giá con người của Bộ Giáo lý đức tin, có thể gây nhầm lẫn cho những người nói tiếng Anh. “Vô hạn” có nghĩa chính xác là “không có giới hạn”. Tuy nhiên, chúng ta đã ngầm bổ sung thêm những hạn định, chẳng hạn như thời gian, sức mạnh hoặc sự hoàn hảo. Nhiều người cho rằng chỉ có Thiên Chúa với bản chất của Người mới có thể tuyên bố là vô hạn theo những nghĩa nêu trên. Vậy thì Tuyên ngôn này có khẳng định một chủ nghĩa nhân văn mới nào đó, dựa trên thiên tính của con người không?

Tuyên ngôn nêu rõ rằng từ vô hạn có nghĩa là “không bị giới hạn bởi hoàn cảnh”. Nghĩa là, phẩm giá con người không mất đi khi ai đó nghèo khổ, yếu đuối, đang trong cơn quằn quại của một căn bệnh hiểm nghèo. . .hoặc đang trong bụng mẹ. Cũng có nghĩa là, Tuyên ngôn mong muốn nhấn mạnh chính xác quan điểm mà phong trào bảo vệ sự sống luôn mong muốn nhấn mạnh. Việc sở hữu các quyền con người không thể phụ thuộc vào vị trí của một người, dù người đó có đang ở trong bụng mẹ, hoặc vào việc người khác có chào đón sự tồn tại của bạn, hoặc có trao quyền cho bạn hay không.

Nhân quyền phụ thuộc vào bản chất con người, và dựa trên bản chất đó, chúng ta có một phẩm giá nội tại và bất khả xâm phạm. Nếu việc cho phép kết liễu cuộc sống của những đứa trẻ được sinh ra ngoài ý muốn – hoặc thậm chí chỉ là đòi quyền làm như vậy là một sự vi phạm trắng trợn nhân quyền! – thì diều tương tự cũng phải được áp dụng với trẻ chưa được sinh ra.

Khi giải quyết thẳng thắn vấn đề cơ bản của nhân quyền, Tuyên ngôn Phẩm giá vô hạn (PGVH) đã cung cấp nền tảng cần thiết cho Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc. Tuyên ngôn PGVH đã ca ngợi Tuyên ngôn Nhân quyền và đánh giá Tuyên ngôn này (cùng với Thánh Gioan Phaolô II) như là sự đạt được của nhân loại ở mức độ cao về những đòi hỏi xuất phát từ phẩm giá con người.

Tuy nhiên, cũng giống như Jacques Maritain đã nêu rõ khi suy ngẫm về việc xây dựng Tuyên ngôn Nhân quyền, Tuyên ngôn PGVH đã cố tình làm cho cơ sở triết học và tôn giáo của các quyền đang được loan báo trở nên không rõ ràng.

Những người soạn thảo Tuyên ngôn phụ thuộc vào phương pháp thực dụng mà sau này John Rawls gọi là “sự đồng thuận chồng chéo”. Sau Thế chiến thứ hai, giữa lúc mọi người đang thoái lui trước sự khủng khiếp của Chủ nghĩa Quốc xã, dường như chỉ cần khẳng định các quyền đã được đồng thuận rộng rãi trước đó nhưng đã bị chủ nghĩa quân phiệt và phân biệt chủng tộc của phong trào Quốc xã phủ nhận là đủ.

Điều này đòi hỏi phải hạ thấp tầm quan trọng của những phủ định tương tự của Liên Xô, một bên ký kết. Và rõ ràng, nếu những người Cộng sản vô thần tham gia ủng hộ, thì nền tảng thực sự của nhân quyền, về phẩm giá siêu việt của con người được Thiên Chúa tạo dựng và được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc không thể được khẳng định.

Nhưng mọi việc diễn ra như thế nào theo phương pháp “đồng thuận chồng chéo”? Đơn giản chỉ cần nhìn vào những vi phạm nhân phẩm trong phần thứ hai của Tuyên ngôn mới đây của Bộ Giáo lý đức tin. Sự đồng thuận đã bị phá vỡ. Như Tuyên ngôn đã chỉ ra, các quyền giả mạo hiện đang được khẳng định, dựa trên những ý tưởng sai lầm về quyền tự do và quyền tự chủ của con người. Những quyền này (“quyền lựa chọn”) thậm chí còn được hưởng sự bảo vệ của pháp luật và được cho là quan trọng hơn cả các quyền thực sự. Họ thậm chí còn tự nhận cho mình danh hiệu cao quý là “nhân phẩm” (chẳng hạn như “Cái chết có nhân phẩm”).

Người ta nghĩ rằng trong bối cảnh như vậy, “Phẩm giá vô hạn” sẽ khẳng định, cũng như các giám mục Hoa Kỳ, rằng “mối đe dọa phá thai” là “ưu tiên hàng đầu” cho hướng dẫn và chính sách chính trị.

Chẳng phải chăng phá thai hợp pháp nhằm thúc đẩy “quyền lựa chọn” là sự phủ nhận rõ ràng nhất, trắng trợn nhất đối với sự thật mà Tuyên ngôn PGVH mong muốn khẳng định đó sao? Và quả thực, Tuyên ngôn đã thể hiện quan điểm này theo hai cách.

Đầu tiên, Tuyên ngôn xác nhận điều này bằng những lời trong nội dung Tuyên ngôn. Trích lời Thánh Gioan Phaolô II, Tuyên ngôn nhận xét rằng: “Việc chấp nhận việc phá thai trong tâm trí bình dân, trong cách cư xử, và ngay cả trong chính luật pháp là một dấu hiệu rõ ràng về một cuộc khủng hoảng cực kỳ nguy hiểm về ý thức đạo đức, một cuộc khủng hoảng ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn vì không có khả năng phân biệt giữa thiện và ác, ngay cả khi quyền cơ bản nhất là quyền được sống đang bị đe dọa.”

Và trích lời Đức Thánh Cha Phanxicô, Tuyên ngôn khẳng định: “Việc bảo vệ sự sống từ khi còn là bào thai gắn liền với việc bảo vệ mọi quyền con người khác. Điều này liên quan đến niềm tin rằng con người luôn thiêng liêng và bất khả xâm phạm, trong mọi tình huống và mọi giai đoạn phát triển. . . . Một khi niềm tin này biến mất, thì những nền tảng vững chắc và lâu dài để bảo vệ nhân quyền cũng sẽ luôn phụ thuộc vào ý muốn bất chợt của các quyền lực hiện tại.

Nhưng Tuyên ngôn cũng ngầm khẳng định những điều này khi chọn bố cục để trình bày về vấn đề phá thai.

Hãy thừa nhận mục đích của Tuyên ngôn là cung cấp nền tảng thực sự cho một tuyên bố phổ quát về nhân quyền và hệ thống hóa đạo đức của tình huynh đệ nhân loại nói chung, điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã nêu lên cho chúng ta trong Fratelli tutti .

Đương nhiên, khi thảo luận về những vi phạm nhân phẩm liên quan đến những mối lo ngại đã nêu,Tuyên ngôn bắt đầu với vấn đề nghèo đói và chênh lệch giàu nghèo giữa các quốc gia; tai họa của chiến tranh; và tình trạng tuyệt vọng của người tị nạn và người di cư.

Nhưng trong số những vi phạm nhân phẩm thuộc quyền lập pháp trực tiếp của một quốc gia, được xem là sự sắp xếp trật tự của chính quốc giá ấy thông qua luật pháp, Tuyên ngôn đặt việc phá thai và vụ bê bối phá thai hợp pháp lên hàng đầu.

Có nhiều đặc điểm tuyệt vời khác của Tuyên ngôn này, chẳng hạn sự bác bỏ mạnh mẽ việc mang thai hộ và khẳng định rằng sự khác biệt giữa nam và nữ là có thật, bất khả xâm phạm và là một món quà từ Thiên Chúa trong Sáng tạo - góp phần vào sự tự do đích thực của chúng ta, chứ không phải là một “sự phân công” của con người nhằm buộc chúng ta phuc tùng người khác.

Người ta có thể hơi tiếc rằng khi Tuyên ngôn đã không thực hiện bước kết nối tự nhiên giữa cuộc cách mạng tình dục với sự nhầm lẫn về nhân quyền kể từ năm 1948. Làm sao chúng ta thể hiện được sự tôn trọng đối với phẩm giá vô hạn của con người nếu chúng ta tỏ ra ít quan tâm đến việc liệu phẩm giá này có tồn tại trong phạm vi nội bộ một cuộc hôn nhân hay chăng? Tuyên ngôn sẽ thật sự tươi mới nếu khẳng định rằng, ở đây, công bằng xã hội đích thực phụ thuộc vào điều mà nhiều người gạt bỏ như một vấn đề đạo đức cá nhân đơn thuần!

Cũng có những phản bác hợp lý khác về Tuyên ngôn này. Mặc dù thế, tôi vẫn thấy trong tài liệu này Giáo hội đang giảng dạy cho thế giới.

Về tác giả:

Michael Pakaluk, một chuyên gia về Triết học Aristotle và giáo sư chính thức của Học viện Giáo hoàng Thánh Thomas Aquinas, là giáo sư tại Trường Kinh doanh Busch tại Đại học Công giáo Hoa Kỳ. Ông sống ở Hyattsville, MD cùng với vợ là Catherine, cũng là giáo sư tại Trường Busch và tám người con của họ. Cuốn sách nổi tiếng của ông về Tin Mừng Máccô là Hồi ký của Thánh Phêrô. Cuốn sách gần đây nhất của ông, Tiếng nói của Đức Maria trong Tin Mừng Gioan: Một bản dịch mới với lời bình luận, hiện đã được phát hành. Cuốn sách mới của ông, Hãy là những chủ ngân hàng tốt: Nền kinh tế thiêng liêng trong Tin mừng Matthêu, sẽ xuất bản tại Regnery Gateway trong vài tháng tới. Giáo sư Pakaluk được Đức Bênêđíctô XVI bổ nhiệm vào Học viện Giáo hoàng Thánh Thomas Aquinas.

Nguồn: https://www.thecatholicthing.org/2024/04/12/whats-right-about-infinite-dignity/?utm_source=The+Catholic+Thing+Daily&utm_campaign=64f8878d2a-EMAIL_CAMPAIGN_2018_12_07_01_02_COPY_01&utm_medium=email&utm_term=0_769a14e16a-64f8878d2a-244329806&mc_cid=64f8878d2a&mc_eid=c8438e69ca

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét