Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2024

TRONG THỜI ĐẠI TRÍ TUỆ NHÂN TẠO, ĐIỀU GÌ LÀM NÊN SỰ ĐỘC ĐÁO CỦA CON NGƯỜI? (PHẦN 1/2)

VẤN ĐỀ (9): TRONG THỜI ĐẠI TRÍ TUỆ NHÂN TẠO, ĐIỀU GÌ LÀM NÊN SỰ ĐỘC ĐÁO CỦA CON NGƯỜI? (PHẦN 1/3)

Joshua Rothman

Phương Anh dịch và viết lời dẫn

----------

DẪN

Sự phát triển với tốc độ thần kỳ của trí tuệ nhân tạo trong thời gian vừa qua đã khiến nhiều người đặt câu hỏi, liệu con người có gì là độc đáo khi dường như tất cả những gì làm nên khả năng của con người đều có thể được thay thế bởi máy móc. Bài viết rất thú vị dưới đây đặt ra vấn đề về bản chất và phẩm giá thực sự của con người, và kết luận:

"Chúng ta nên nhìn nhận khả năng của AI là mạnh mẽ, nhưng không bao giờ thực sự giống con người. Chúng ta nên thoải mái hơn khi khẳng định rằng bản chất con người là không thể thay thế, và nên tự hào về thực tế rằng chúng ta phải khó khăn để có thể để định nghĩa bản chất ấy."

Nhưng cái bản chất mà tác giả cho rằng chúng ta đang phải khó khăn để định nghĩa ấy, nó là cái gì thế? Trong niềm tin Kitô giáo, chúng ta tin rằng con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa (Imago Dei), và sự sống của con người trên trần thế này hoàn toàn nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa. có mục đích cao cả trong kế hoạch của Thiên Chúa.

Dù AI có thể bắt chước nhiều kỹ năng và thậm chí tạo ra những điều tưởng như chỉ con người mới làm được, nhưng nó không thể có tình cảm, ý thức đạo đức, hay khả năng quyết định dựa trên tình yêu và lòng nhân từ. Trong một thế giới ngày càng phụ thuộc vào công nghệ, chúng ta càng cần nhìn lại giá trị cốt lõi của con người, không chỉ qua những gì chúng ta làm, mà qua phẩm giá nội tại của chúng ta, được Thiên Chúa trao ban và gìn giữ.

----------

"Hơn bao giờ hết, chúng ta đang phải đối mặt với thách thức trong việc định nghĩa giá trị của con người." Joshua Rothman

Mới đây, tôi đi cắt tóc và anh thợ cắt tóc kể cho tôi câu chuyện về trí tuệ nhân tạo. "Thật không thể tin được", anh ấy nói. "Tôi mới dùng AI để viết một bài thơ sinh nhật tặng cô con gái. Tôi đưa ý tưởng tôi muốn viết cho AI, nhưng tôi không biết cách gieo vần cho tốt, vì vậy AI đã viết tất cả. Khi con bé đọc bài thơ, nó rất cảm động và đã khóc! Sau đó, con bé còn đưa cho bạn của nó, cô bạn này người rất thông minh, và tôi nghĩ, “Thôi chết rồi, con bé sẽ nhận ra bài thơ này là do máy viết." Anh ta ngừng lại, thoăn thoắt đưa kéo bấm những lọn tóc cho đều, rồi tiếp. "Con bé không hề nhận ra nhé.”

Mọi người trong tiệm cắt tóc đều cười, dù có vẻ hơi kém thoải mái. Viết những bài thơ khiến con gái bạn khóc—nào, hãy thêm điều đó vào danh sách những điều vốn từng là khả năng độc đáo của (một số) con người, nhưng giờ thì không còn đúng nữa. Trí tuệ nhân tạo ngày nay hệ thống có thể làm thơ, viết code, viết các bài luận và truyện cười với chất lượng ở mức chấp nhận được, thực hiện các cuộc trao đổi hữu ích về kinh tế, chủ nghĩa hiện sinh và Trung Đông; và thậm chí thực hiện một số công đoạn trong nghiên cứu khoa học, chẳng hạn như lập kế hoạch thí nghiệm, đưa ra dự đoán và giải thích kết quả. Trí tuệ nhân tạo cũng có thể đưa ra phán đoán về các tình huống phức tạp—mô hình giao thông, đầu tư—với tốc độ siêu phàm. Trên thực tế, chúng ta vẫn chưa biết hết khả năng của AI. Các công ty công nghệ lớn nhất đang chạy đua phát triển các ứng dụng AI mới, một phần cũng là để tìm hiểu giới hạn cuối cùng của các tiềm năng ấy.

Có vẻ như danh sách những khả năng của AI sẽ chỉ có thể ngày càng dài ra—và do đó, con người ngày càng được thúc đẩy để trả lời câu hỏi: Thực ra con người có những tài năng gì nhỉ? Trước đây, các nhà thần học và triết học đã so sánh chúng ta với các loài động vật khác để từ đó xác định con người vượt trội hơn loài vật ở những điểm nào. Giờ đây, thứ tự trong bảng xếp hạng không những đã thay đổi mà còn bị đảo lộn hoàn toàn một cách bất ngờ.

Trong một số trường hợp, chúng ta thực sự ngưỡng mộ tài năng của AI (chẳng hạn, không thể có bất cứ ai có khả viết lách cách trôi chảy và nhanh chóng đến kinh ngạc như AI). Trong những trường hợp khác, chúng ta phát điên vì sự ngu ngốc của nó (không ai khuyên bạn nên hình thành thói quen ăn "ít nhất một hòn đá nhỏ" mỗi ngày, như ứng dụng AI của Google đã trả lời tôi cách đây không lâu khi tôi hỏi "Mỗi ngày tôi nên ăn bao nhiêu hòn đá nhỉ?"). Và trong nhiều trường hợp khác nữa, chúng ta thực sự bối rối trước sự khác biệt về cách suy luận của trí tuệ nhân tạo và của con người. AI không biết yêu, nhưng nó vẫn có thể đưa ra ý tưởng về tình yêu; nó không phải nghệ sĩ, nhưng nó vẫn có thể (có lẽ vậy) tạo ra những tác phẩm nghệ thuật; trước một quyết định hệ trọng, nó không có khả năng dằn vặt vì đắn đo chọn lựa, nhưng nó vẫn đưa ra được quyết định. Chúng ta biết rõ rằng có những khác biệt rõ rệt giữa con người và một cái máy tính biết suy nghĩ, nhưng để xác định những điểm khác biệt lại không dễ dàng một chút nào.

Tuy nhiên, câu hỏi trừu tượng này lại có những ý nghĩa vô cùng thực tế. Khi trí tuệ nhân tạo phát triển mạnh, ngày càng có nhiều điều phụ thuộc vào khả năng diễn đạt giá trị của chính chúng ta. Có vẻ như chúng ta đang ở ngưỡng cửa của một thế giới mà trong đó mọi loại người lao động—giáo viên, bác sĩ, nhà văn, nhiếp ảnh gia, luật sư, lập trình viên, nhân viên văn phòng, v.v.—sẽ bị thay thế hoặc ở một mức độ nào đó bị gạt ra ngoài lề bởi những ứng dụng AI. Khi AI vào cuộc, liệu điều gì sẽ bị mất đi?

Trong cuốn sách “AI Snake Oil: What Artificial Intelligence Can Do, What It Can’t, and How to Tell the Difference”, (tạm dịch: Dầu rắn thời trí tuệ nhân tạo: AI làm được gì và không làm được gì, và làm sao có thể phân biệt với trí tuệ loài người) hai nhà khoa học máy tính là Arvind Narayanan và Sayash Kapoor đã tiếp cận câu hỏi ở cấp độ thực tế. Họ thúc đẩy sự hoài nghi và lập luận rằng thuật ngữ “trí tuệ nhân tạo” như một thuật ngữ bao trùm như hiện nay có thể làm bình phong cho các công nghệ kém hiệu quả.

“Hãy tưởng tượng ở vũ trụ khác nơi con người không có từ ngữ để chỉ các hình thức vận chuyển khác nhau, chỉ sử dụng một danh từ chung chung là “‘phương tiện giao thông’”, các tác giả viết. Một thế giới như vậy sẽ chứng kiến ​​“những cuộc tranh luận triền miên về việc ‘phương tiện giao thông’ có thân thiện với môi trường hay không, mà không ai nhận ra rằng một bên đang nói về xe đạp còn bên kia đang nói về xe tải”. Tương tự như vậy, theo các tác giả, thuật ngữ “trí tuệ nhân tạo” cũng bao gồm nhiều công nghệ khác nhau với nhiều cấp độ năng lực khác nhau.

Narayanan và Kapoor đặc biệt cảnh giác với trí tuệ nhân tạo dự báo, vốn được thiết kế để đưa ra dự đoán về tương lai. Không giống như AI tạo sinh — là công nghệ tương đối mới được sử dụng trong ChatGPT và các công nghệ tương tự — AI dự báo đã được tích hợp vào cuộc sống của chúng ta ở mức độ đáng ngạc nhiên. Các phòng ban nhân sự sử dụng AI để góp phần dự đoán ứng viên nào sẽ thành công trong công việc; các bệnh viện sử dụng AI để giúp quyết định ai nên được trả về nhà hoặc được chấp nhận nhập viện. Điều đáng nói là các hệ thống AI dự đoán hầu như không bao giờ được kiểm tra nghiêm ngặt và độc lập; khi thực sự được kiểm tra, chúng thường không đạt.

Narayanan và Kapoor kể lại những phát hiện của các nhà nghiên cứu đang điều tra một hệ thống AI có tên là Retorio, hệ thống này tuyên bố có thể dự đoán hành vi trong công việc trong tương lai và do đó là hiệu suất, bằng cách phân tích các cuộc phỏng vấn video với các ứng viên xin việc. Hóa ra, việc đeo kính hoặc khăn quàng cổ, ngồi trước một số giá sách hoặc gửi sơ yếu lý lịch dưới dạng PDF có thể thay đổi đáng kể điểm số của ứng viên. "Nhưng rõ ràng việc đeo kiếng đâu có làm thay đổi khả năng làm việc của một người", các tác giả viết. Vì vậy, theo các tác giả, hệ thống này chính là dầu rắn thời AI vậy.

__________

Nguồn: New York Times (bài và ảnh)

Link:https://www.newyorker.com/culture/open-questions/in-the-age-of-ai-what-makes-people-unique

Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2024

Hành trình đức tin luôn sống động (First Things, 13/8/2024)

DẪN

Nhà thờ ngày càng vắng, ngày càng nhiều người trẻ tự nhận mình không theo một tôn giáo nào, số lượng giáo dân được ghi nhận ngày càng giảm... đó là tình trạng của hầu hết các nước phương tây hiện nay, nơi Kitô giáo (với nhiều hệ phái khác nhau) là tôn giáo chính. Phải chăng xã hội phương tây ngày nay đã trở nền (gần như) hoàn toàn tục hóa, nơi người ta không còn cần đến Thiên Chúa nữa? Hay ngược lại, chính sự bỏ đạo lại là dấu hiệu cho thấy con người ngày nay cần Thiên Chúa hơn bao giờ hết, và vì vậy không thể dễ dàng chấp nhận một đức tin được di truyền từ đời này sang đời kia mà không cần có chút gì liên quan đến cuộc sống hàng ngày của họ?

Câu trả lời có thể tìm thấy trong bài viết này, dựa trên một nghiên cứu khoa học về những biến chuyển trong hành trình đức tin của mỗi con người.


----------------------------------

Khi lời tiên đoán về ngày tận thế của giáo phái Nhân chứng Giê-hô-va về ngày tận thế đã không xảy ra vào năm 1975, Gudrun và Werner, cặp đôi trẻ đến từ Đức, đã trao đổi với nhau về những sự nghi ngờ ngày càng tăng và cuối cùng đã chọn rời khỏi cộng đồng đức tin của mình. Nhiều thập kỷ trôi qua, và vào năm 2003, họ tham gia vào một nhà thờ thuộc hệ phái n điển Thánh linh. Mười năm sau, họ nói với các nhà nghiên cứu rằng họ cũng đã rời khỏi nhà thờ đó, nhưng vẫn tự đọc Kinh thánh hoặc, trong trường hợp của Gudrun, đã tham gia vào một buổi học Kinh thánh dành cho phụ nữ.

Câu chuyện của cặp đôi này, được trình bày chi tiết trong tác phẩm Giai điệu chủ đạo trong câu chuyện cuộc đời (Leitmotifs in Life Stories) của tác giả Ramona Bullik, minh họa cách đức tin phát triển trong suốt cuộc đời theo những cách khác thường không giống như những câu chuyện mà ta thường nghe. Người ta rời bỏ tôn giáo, rồi quay trở lại, rồi lại bỏ. Hơn nữa, nhiều người có thể rời khỏi các nhóm tôn giáo trong những giai đoạn nào đó trong đời, nhưng không nhất thiết trở thành người vô thần.

Cuốn sách của Bullik kể lại những câu chuyện của Gudrun và Werner cùng với bảy người khác. Câu chuyện của bà dựa trên nghiên cứu của các nhà tâm lý học Heinz Streib và Ralph J. Hood, những người đã phỏng vấn hàng trăm người tại Hoa Kỳ và Đức đã rời bỏ cộng đoàn tôn giáo của mình. Nghiên cứu theo chiều dọc đầu tiên của họ trong hơn 20 năm gần đây đã hoàn thành đợt phỏng vấn thứ tư theo cùng một nhóm người.

Streib đã theo học với nhà thần học James Fowler và sử dụng lại cuộc phỏng vấn của ông về hành trình phát triển của đức tin. Nhưng nghiên cứu của Streib đã khiến ông mô tả đức tin theo cách khác. Trong mô hình của Fowler, con người sẽ trải qua các giai đoạn phát triển của tâm linh . Streib phản bác, "Để nói rằng con người càng già đi thì đức tin của họ càng phát triển thì quá dễ”. Những nghiên cứu về sự khôn ngoan đã chỉ ra rằng con người không nhất thiết trở nên khôn ngoan hơn khi họ già đi.

“Tôi không thể đơn giản nói rằng có những bước đi rõ ràng … hoặc một quỹ đạo xác định cho tất cả mọi người trong suốt cuộc đời. Bởi vì có rất nhiều hoàn cảnh đa dạng, và khi một người gặp phải những khủng hoảng hoặc hoàn cảnh sống khác biệt, người ấy có thể sử dụng những cách thức khác nhau để đối phó với những thách thức đó”, ông nói.

Hood đưa ra ví dụ sau: Nếu bạn đưa con đến bác sĩ nhi khoa, bác sĩ có thể hỏi về kỹ năng vận động của con bạn. Con đã biết bò chưa? Con đã cố gắng tự đứng dậy chưa? Con có cố gắng bước đi trong khi bám vào đồ đạc không? Nhưng một khi con bạn biết đi, phải chăng điều đó có nghĩa là bạn sẽ không bao giờ thấy con mình bò nữa? Không phải thế. Trên thực tế, trong một vụ cháy nhà, lính cứu hỏa sẽ yêu cầu những người lớn quỳ xuống và bò ra ngoài.

Tiếp tục ví dụ trên, sau vụ hỏa hoạn - tất nhiên nếu không ai bị thương tích gì - họ sẽ đi trở lại bình thường, để có thể đi xa hơn. Tương tự như vậy, Streib cho biết những người thay đổi tôn giáo của họ không phải lúc nào cũng thực sự mất hết đức tin - họ vẫn đang phát triển về mặt tâm linh, đôi khi theo một cách khác và đôi khi họ tìm được cách để ở lại.

Đối với Gudrun, cuộc hôn nhân của bà với Werner đã tác động rất lớn đến hành trình tôn giáo của bà. Trong khi bà tự mô tả mình là một tín đồ ngoan đạo của hệ phái thời thơ ấu của bà - và bà gặp chồng mình thông qua giáo phái Nhân chứng Giê-hô-va - thì Werner vẫn luôn có những sự hoài nghi. Ông mô tả tình trạng khủng hoảng của mẹ mình ở Đông Đức sau Thế chiến II là nguyên nhân thúc đẩy bà tham gia vào giáo phái Nhân chứng Giê-hô-va; chính giáo phái này đã giúp họ chạy trốn sang Tây Đức. Khi còn trẻ, Werner đã muốn tách mình khỏi nhóm, nhưng sau đó chính từ nơi này ông đã gặp vợ mình. Cuối cùng, chính Werner đã tìm kiếm những góc nhìn khác và cuối cùng đã thúc đẩy Gudrun nhìn nhận những thiếu sót của nhóm giáo phái này như lý do để họ rời đi.

Werner mô tả những sự chuyển đổi trong cuộc sống đức tin của mình một cách thực tế: sau khi rời khỏi giáo phái Nhân chứng Giê-hô-va, họ đã gia nhập Giáo hội Tin lành địa phương vì con gái họ đã chào đời. Khi vị mục sư chuyển đến một cộng đoàn khác, họ đã tìm thấy một cộng đoàn mới - thuộc hệ phái n điển Thánh linh. Gudrun thấy mình thật thoải mái trong truyền thống mới này, dễ dàng chấp nhận các nghi lễ và niềm tin của một hệ phái tràn đầy linh hứng. Lúc đầu Werner rất nhiệt tình, nhưng sau đó cảm thấy nhàm chán về mặt trí tuệ. Ông đã tìm thấy sự thức tỉnh về thần học qua việc xem xét niềm tin của mình bằng lăng kính khoa học và so sánh Kinh thánh với các tác phẩm cổ khác, chẳng hạn như tiếng Assyria hoặc tiếng Ai Cập.

Thay đổi căn tính tôn giáo

Các nhà tâm lý học Neal Krause và Gail Ironson cũng đã cân nhắc sự thay đổi tôn giáo theo thời gian, xem xét liệu mọi người có nhất quán xác định mình là người theo một tôn giáo cụ thể, hoặc không theo tôn giáo nào nhưng có khuynh hướng tâm linh, hay hoàn toàn chẳng có chút niềm tin nào. Trong nghiên cứu hai đợt của họ, một phần tư số người tham gia nghiên cứu đã thay đổi danh xưng về tôn giáo của mình trong khoảng thời gian bảy năm. Dữ liệu nghiên cứu mặc dù cũng có một số hạn chế, nhưng nhìn chung có thể thấy rằng càng già đi thì mọi người càng ít có khả năng thoát khỏi căn tính tôn giáo của mình. Cuối cùng, Krause và Ironson kết luận rằng căn tính tôn giáo và tâm linh là một cái gì đó thường xuyên biến đổi, và bất kỳ lúc nào cũng có những n gười đang định hình lại đức tin của mình.

Sau khi rời khỏi nhiều hệ phái khác nhau, Werner, ở tuổi 79, không còn tuân theo những cách giải thích Kinh thánh theo nghĩa đen và cảm thấy không còn phụ thuộc vào các tôn giáo có tổ chức. Ông quan niệm việc "theo đạo" thoáng hơn rất nhiều - điều đó đơn giản chỉ là sự tham gia tìm kiếm những câu hỏi về cùng đích của cuộc đời. Ông từ chối một hình ảnh hẹp hòi về Thiên Chúa, trong đó Ngài là một đấng để trừng phạt sự sai trái, và ông cũng không còn tin rằng Ngài là đấng “toàn năng". Tuy nhiên, ông tin vào một Thiên Chúa nhân từ trong hình ảnh của Đức Giêsu, đấng luôn có sự đồng cảm xót thương xót đối với loài người.. Ông không tuân theo một hệ thống tín lý nào, nhưng trong lòng luôn có sự thôi thúc tìm kiếm chân lý, và người vợ ngoan đạo đã trở thành điểm tựa duy nhất cho ông, vì ông không hề tham gia vào đời sống cộng đồng của bất kỳ tôn giáo nào.

Ở tuổi 83, Gudrun chọn một hướng đi đức tin hơi khác. Không còn duy trì việc thực hành đức tin trong một cộng đồng sùng tín như trước đây, dường như bà hơi tiếc nuối về điều này và vẫn duy trì mối liên hệ với một nhóm nghiên cứu Kinh thánh dành cho phụ nữ. Bà ít quan tâm đến việc người khác “dán nhãn” cho đức tin của mình như thế nào. So với những năm tháng thời trẻ, bà đang thấy mình hài lòng hơn với niềm tin của mình vào Thiên Chúa và vào Chúa Giêsu. Bà nói đến ảnh hưởng của một nhà thần học Công giáo đối với mình, và mô tả niềm tin của mình vào Chúa như sau: "Điều mà Giáo hội cần nhận ra là phải từ bỏ vị Chúa nghiêm khắc trừng phạt và nhận ra rằng Ngài là một vị Chúa của tình yêu vô hạn. […] Điều đó hoàn toàn thuyết phục đối với tôi."

Những bài viết trên truyền thông không đúng

Đối với Hood, những bài viết không đủ tinh tế về sự bỏ đạo có thể dẫn đến sự hiểu lầm rằng nền văn hóa của chúng ta ngày càng trở nên thế tục hơn khi có người rời bỏ một nhóm tôn giáo nào đó. Theo nghiên cứu của các tác giả, không phải là khi người ta rời bỏ một niềm tin thì sẽ đương nhiên trở thành vô thần. Một số người vẫn duy trì niềm tin tâm linh. Đối với một số người, khi đức tin của họ phát triển thông qua những hành động nhìn bên ngoài có vẻ như là bỏ đạo, thì lúc đó họ đang tự đào sâu hơn về đức tin, chứ không phải trở nên thế tục hơn.

Những phát triển tâm lịnh này có thể xuất hiện trong những gì nằm ngoài căn tính tôn giáo thông thường—ví dụ, sự quan tâm của Werner đến các tác phẩm cổ xưa khác hoặc với khoa học hiện đại. Đối với những người khác, việc thực hành yoga hoặc thiền định. "Nhiều người tìm kiếm một diều gì khác", Streib nói.

“Họ có thể không gọi đó là tôn giáo. Họ có thể tìm từ ngữ khác để diễn đạt. Họ có thể gọi đó là tâm linh.”

Nguồn: External link

Chủ Nhật, 14 tháng 4, 2024

Những điều đúng đắn trong Tuyên ngôn 'Phẩm giá vô hạn

Những điều đúng đắn trong Tuyên ngôn 'Phẩm giá vô hạn'

(Đăng trên The Catholic Thing, Thứ Sáu, 12/4/2024)

Tác giả: Michael Pakaluk, Phương Anh dịch

“Phẩm giá vô hạn”, tên của Tuyên ngôn mới đây về phẩm giá con người của Bộ Giáo lý đức tin, có thể gây nhầm lẫn cho những người nói tiếng Anh. “Vô hạn” có nghĩa chính xác là “không có giới hạn”. Tuy nhiên, chúng ta đã ngầm bổ sung thêm những hạn định, chẳng hạn như thời gian, sức mạnh hoặc sự hoàn hảo. Nhiều người cho rằng chỉ có Thiên Chúa với bản chất của Người mới có thể tuyên bố là vô hạn theo những nghĩa nêu trên. Vậy thì Tuyên ngôn này có khẳng định một chủ nghĩa nhân văn mới nào đó, dựa trên thiên tính của con người không?

Tuyên ngôn nêu rõ rằng từ vô hạn có nghĩa là “không bị giới hạn bởi hoàn cảnh”. Nghĩa là, phẩm giá con người không mất đi khi ai đó nghèo khổ, yếu đuối, đang trong cơn quằn quại của một căn bệnh hiểm nghèo. . .hoặc đang trong bụng mẹ. Cũng có nghĩa là, Tuyên ngôn mong muốn nhấn mạnh chính xác quan điểm mà phong trào bảo vệ sự sống luôn mong muốn nhấn mạnh. Việc sở hữu các quyền con người không thể phụ thuộc vào vị trí của một người, dù người đó có đang ở trong bụng mẹ, hoặc vào việc người khác có chào đón sự tồn tại của bạn, hoặc có trao quyền cho bạn hay không.

Nhân quyền phụ thuộc vào bản chất con người, và dựa trên bản chất đó, chúng ta có một phẩm giá nội tại và bất khả xâm phạm. Nếu việc cho phép kết liễu cuộc sống của những đứa trẻ được sinh ra ngoài ý muốn – hoặc thậm chí chỉ là đòi quyền làm như vậy là một sự vi phạm trắng trợn nhân quyền! – thì diều tương tự cũng phải được áp dụng với trẻ chưa được sinh ra.

Khi giải quyết thẳng thắn vấn đề cơ bản của nhân quyền, Tuyên ngôn Phẩm giá vô hạn (PGVH) đã cung cấp nền tảng cần thiết cho Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc. Tuyên ngôn PGVH đã ca ngợi Tuyên ngôn Nhân quyền và đánh giá Tuyên ngôn này (cùng với Thánh Gioan Phaolô II) như là sự đạt được của nhân loại ở mức độ cao về những đòi hỏi xuất phát từ phẩm giá con người.

Tuy nhiên, cũng giống như Jacques Maritain đã nêu rõ khi suy ngẫm về việc xây dựng Tuyên ngôn Nhân quyền, Tuyên ngôn PGVH đã cố tình làm cho cơ sở triết học và tôn giáo của các quyền đang được loan báo trở nên không rõ ràng.

Những người soạn thảo Tuyên ngôn phụ thuộc vào phương pháp thực dụng mà sau này John Rawls gọi là “sự đồng thuận chồng chéo”. Sau Thế chiến thứ hai, giữa lúc mọi người đang thoái lui trước sự khủng khiếp của Chủ nghĩa Quốc xã, dường như chỉ cần khẳng định các quyền đã được đồng thuận rộng rãi trước đó nhưng đã bị chủ nghĩa quân phiệt và phân biệt chủng tộc của phong trào Quốc xã phủ nhận là đủ.

Điều này đòi hỏi phải hạ thấp tầm quan trọng của những phủ định tương tự của Liên Xô, một bên ký kết. Và rõ ràng, nếu những người Cộng sản vô thần tham gia ủng hộ, thì nền tảng thực sự của nhân quyền, về phẩm giá siêu việt của con người được Thiên Chúa tạo dựng và được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc không thể được khẳng định.

Nhưng mọi việc diễn ra như thế nào theo phương pháp “đồng thuận chồng chéo”? Đơn giản chỉ cần nhìn vào những vi phạm nhân phẩm trong phần thứ hai của Tuyên ngôn mới đây của Bộ Giáo lý đức tin. Sự đồng thuận đã bị phá vỡ. Như Tuyên ngôn đã chỉ ra, các quyền giả mạo hiện đang được khẳng định, dựa trên những ý tưởng sai lầm về quyền tự do và quyền tự chủ của con người. Những quyền này (“quyền lựa chọn”) thậm chí còn được hưởng sự bảo vệ của pháp luật và được cho là quan trọng hơn cả các quyền thực sự. Họ thậm chí còn tự nhận cho mình danh hiệu cao quý là “nhân phẩm” (chẳng hạn như “Cái chết có nhân phẩm”).

Người ta nghĩ rằng trong bối cảnh như vậy, “Phẩm giá vô hạn” sẽ khẳng định, cũng như các giám mục Hoa Kỳ, rằng “mối đe dọa phá thai” là “ưu tiên hàng đầu” cho hướng dẫn và chính sách chính trị.

Chẳng phải chăng phá thai hợp pháp nhằm thúc đẩy “quyền lựa chọn” là sự phủ nhận rõ ràng nhất, trắng trợn nhất đối với sự thật mà Tuyên ngôn PGVH mong muốn khẳng định đó sao? Và quả thực, Tuyên ngôn đã thể hiện quan điểm này theo hai cách.

Đầu tiên, Tuyên ngôn xác nhận điều này bằng những lời trong nội dung Tuyên ngôn. Trích lời Thánh Gioan Phaolô II, Tuyên ngôn nhận xét rằng: “Việc chấp nhận việc phá thai trong tâm trí bình dân, trong cách cư xử, và ngay cả trong chính luật pháp là một dấu hiệu rõ ràng về một cuộc khủng hoảng cực kỳ nguy hiểm về ý thức đạo đức, một cuộc khủng hoảng ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn vì không có khả năng phân biệt giữa thiện và ác, ngay cả khi quyền cơ bản nhất là quyền được sống đang bị đe dọa.”

Và trích lời Đức Thánh Cha Phanxicô, Tuyên ngôn khẳng định: “Việc bảo vệ sự sống từ khi còn là bào thai gắn liền với việc bảo vệ mọi quyền con người khác. Điều này liên quan đến niềm tin rằng con người luôn thiêng liêng và bất khả xâm phạm, trong mọi tình huống và mọi giai đoạn phát triển. . . . Một khi niềm tin này biến mất, thì những nền tảng vững chắc và lâu dài để bảo vệ nhân quyền cũng sẽ luôn phụ thuộc vào ý muốn bất chợt của các quyền lực hiện tại.

Nhưng Tuyên ngôn cũng ngầm khẳng định những điều này khi chọn bố cục để trình bày về vấn đề phá thai.

Hãy thừa nhận mục đích của Tuyên ngôn là cung cấp nền tảng thực sự cho một tuyên bố phổ quát về nhân quyền và hệ thống hóa đạo đức của tình huynh đệ nhân loại nói chung, điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã nêu lên cho chúng ta trong Fratelli tutti .

Đương nhiên, khi thảo luận về những vi phạm nhân phẩm liên quan đến những mối lo ngại đã nêu,Tuyên ngôn bắt đầu với vấn đề nghèo đói và chênh lệch giàu nghèo giữa các quốc gia; tai họa của chiến tranh; và tình trạng tuyệt vọng của người tị nạn và người di cư.

Nhưng trong số những vi phạm nhân phẩm thuộc quyền lập pháp trực tiếp của một quốc gia, được xem là sự sắp xếp trật tự của chính quốc giá ấy thông qua luật pháp, Tuyên ngôn đặt việc phá thai và vụ bê bối phá thai hợp pháp lên hàng đầu.

Có nhiều đặc điểm tuyệt vời khác của Tuyên ngôn này, chẳng hạn sự bác bỏ mạnh mẽ việc mang thai hộ và khẳng định rằng sự khác biệt giữa nam và nữ là có thật, bất khả xâm phạm và là một món quà từ Thiên Chúa trong Sáng tạo - góp phần vào sự tự do đích thực của chúng ta, chứ không phải là một “sự phân công” của con người nhằm buộc chúng ta phuc tùng người khác.

Người ta có thể hơi tiếc rằng khi Tuyên ngôn đã không thực hiện bước kết nối tự nhiên giữa cuộc cách mạng tình dục với sự nhầm lẫn về nhân quyền kể từ năm 1948. Làm sao chúng ta thể hiện được sự tôn trọng đối với phẩm giá vô hạn của con người nếu chúng ta tỏ ra ít quan tâm đến việc liệu phẩm giá này có tồn tại trong phạm vi nội bộ một cuộc hôn nhân hay chăng? Tuyên ngôn sẽ thật sự tươi mới nếu khẳng định rằng, ở đây, công bằng xã hội đích thực phụ thuộc vào điều mà nhiều người gạt bỏ như một vấn đề đạo đức cá nhân đơn thuần!

Cũng có những phản bác hợp lý khác về Tuyên ngôn này. Mặc dù thế, tôi vẫn thấy trong tài liệu này Giáo hội đang giảng dạy cho thế giới.

Về tác giả:

Michael Pakaluk, một chuyên gia về Triết học Aristotle và giáo sư chính thức của Học viện Giáo hoàng Thánh Thomas Aquinas, là giáo sư tại Trường Kinh doanh Busch tại Đại học Công giáo Hoa Kỳ. Ông sống ở Hyattsville, MD cùng với vợ là Catherine, cũng là giáo sư tại Trường Busch và tám người con của họ. Cuốn sách nổi tiếng của ông về Tin Mừng Máccô là Hồi ký của Thánh Phêrô. Cuốn sách gần đây nhất của ông, Tiếng nói của Đức Maria trong Tin Mừng Gioan: Một bản dịch mới với lời bình luận, hiện đã được phát hành. Cuốn sách mới của ông, Hãy là những chủ ngân hàng tốt: Nền kinh tế thiêng liêng trong Tin mừng Matthêu, sẽ xuất bản tại Regnery Gateway trong vài tháng tới. Giáo sư Pakaluk được Đức Bênêđíctô XVI bổ nhiệm vào Học viện Giáo hoàng Thánh Thomas Aquinas.

Nguồn: https://www.thecatholicthing.org/2024/04/12/whats-right-about-infinite-dignity/?utm_source=The+Catholic+Thing+Daily&utm_campaign=64f8878d2a-EMAIL_CAMPAIGN_2018_12_07_01_02_COPY_01&utm_medium=email&utm_term=0_769a14e16a-64f8878d2a-244329806&mc_cid=64f8878d2a&mc_eid=c8438e69ca

Thứ Hai, 11 tháng 12, 2023

Hoa trái Lời Chúa - Hành trình 52 tuần (Tuần thứ hai)

Tuần 2 Mùa Vọng Năm B - 11/12/2023 "Trời cao nghe chăng, trần gian khấn van mưa nguồn ơn cứu chuộc…” Lạy Chúa Giêsu, tuần đầu tiên của mùa vọng đã qua đi. Nếu trong tuần đầu tiên Lời Chúa nhắc nhở con phải luôn tỉnh thức để chuẩn bị cho ngày Chúa đến, thì trong tuần thứ hai lời này lời kêu gọi đã trở nên khẩn thiết rất nhiều, vì ngày Chúa đến đã gần kề. Đoạn TM của Thánh Mác-cô giúp con sống lại tâm tình của dân Chúa năm xưa: sự khát khao trông đợi Đấng Cứu thế ngự xuống để giải thoát muôn dân khỏi ách nô lệ, sự thôi thúc phải sám hối tội lỗi để xứng đáng đón nhận Đức Chúa giáng trần, sự quyết tâm hoán cải và tuyên xưng lòng tin vào Thiên Chúa như được thể hiện qua hành động đến chịu phép phép rửa với ông Gioan Tẩy Giả, người Tiền hô của Đức Giêsu, con Thiên Chúa. Con nhìn lại mình, một tín hữu đã chịu phép rửa từ lúc mới sinh ra, đã được đón nhận đức tin để biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế mà Chúa Cha đã hứa, đã được Chúa tha thứ và giải thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi. Vậy mà con vẫn nhiều lúc sống như không có Chúa trong cuộc đời con, tâm hồn con vẫn đầy những con đường cong queo đầy gò đống và hố sâu gập ghềnh ngăn cản Chúa đến với con. Nghĩ lại, con thật ân hận và xấu hổ vì đã bao lần mạnh miệng hứa với Chúa rằng từ nay quyết chừa mọi tội lỗi, để rồi rất nhanh sau đó đã làm ngược với những điều mình đã hứa. Và hôm nay, lạy Chúa, lại một lần nữa con quyết tâm hoán cải để chuẩn bị tâm hồn đón Chúa. Xin Chúa ban cho con thêm lòng khao khát và sự quyết tâm để can đảm bạt mọi núi đồi của kiêu căng ích kỷ và lấp các hố sâu chia rẽ hận thù, để con đường tâm hồn của con trở nên quang đãng và ngay thẳng, để không còn điều gì ngăn cản Chúa đến trong đời con. Lạy Chúa Giêsu, lòng con khao khát Người. "Yêu thương, lòng con chờ mong, xin Chúa xuống…”

Hoa trái Lời Chúa - Hành trình 52 tuần từ CN 1 Mùa Vọng 2023 (Tuần thứ nhất)

Tuần 1 Mùa Vọng Năm B - 6/12/2023 Lạy Chúa, mùa Vọng một lần nữa lại đến trong không khí háo hức, hân hoan chờ đón ngày lễ kỷ niệm Chúa xuống thế làm người. Thêm một lần nữa trong đời, con được nhắc về ngày Chúa sẽ ngự đến trong đời con, để con được diện kiến Thánh nhan của Người. Đọc bài Tin mừng CN thứ nhất mùa vọng năm nay, con chợt nhận ra lý do vì sao Giáo hội bắt đầu một năm phụng vụ bằng Mùa Vọng. Đây là thời gian hằng năm Chúa kêu gọi con bắt đầu lại, nhắc nhở con rằng cuộc sống trên dương thế này là một cuộc chờ đợi trong tâm thế chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận Chúa, như người đầy tớ trông chờ chủ của mình trở về. Trong thời gian ấy, những người đầy tớ trung tín sẽ luôn chăm chỉ và hết lòng thực hiện những lời dặn của chủ, trong khi những kẻ đầy tớ lười biếng tận dụng cơ hội này để vui chơi và làm mọi việc theo ý riêng của mình. Có thể họ không định phản bội chủ mà chỉ là biếng nhác và tự nhủ rằng vẫn còn thời gian trước khi chủ về để thực hiện những lời dặn của chủ. Thực không may cho những kẻ này nếu khi chủ về bắt gặp họ tình trạng nửa tỉnh nửa mê vì say rượu, áo quần xộc xệch, nhà cửa của chủ thì bề bộn những bát đĩa ly tách dơ bẩn vì chưa được rửa sau những cuộc truy hoan không dứt... Không một người chủ nào có thể hài lòng hay chấp nhận n hững tên đầy tớ lười biếng và vô dụng như thế. “Phải canh thức!” Chúa đã nói với con như thế qua bài tin mừng của Thánh Mác-cô. Con tạ ơn Chúa đã nhắc nhở con vì con thấy mình cũng đang trong tình trạng mê ngủ, bù đầu với những công việc hàng ngày sống theo bản năng mà quên đi những lời Chúa dạy, trong đó điều luật quan trọng nhất là luật yêu thương. Xin Chúa giúp con trong Mùa Vọng biết bỏ đi tính ích kỷ nhỏ nhen sự hờn oán trách móc và khắt khe đối với những người xung quanh, biết quảng đại dành thời gian để cầu nguyện với Chúa và dùng lời Chúa làm kim chỉ nam dẫn đường cho cuộc sống hàng ngày. “Lạy Thiên Chúa, xin phục hồi chúng con, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời, để chúng con được ơn cứu độ”. Xin cho Mùa Vọng này đối với con là một cuộc hành trình trở về để đón nhận niềm vui có Chúa trong cuộc đời, mỗi ngày và mọi ngày trong cuộc đời con. Amen.

Thứ Bảy, 1 tháng 4, 2023

VÌ SAO ĐẠO CÔNG GIÁO LÀ ĐẠO THẬT?

Nguồn: Why Catholicism is the true religion

(Phương Anh dịch)

Gần đây tôi đã gặp một người đàn ông, khoảng sáu mươi lăm tuổi, và sau khi tôi kể cho ông nghe về công việc của mình, ông đã kể lại câu chuyện này: “Khi tôi còn học trung học ở một trường Công giáo, tôi đã từng hỏi một trong các sư huynh rằng, 'Làm sao chúng ta biết được rằng trong tất cả các tôn giáo trên thế giới thì chỉ có đạo Công giáo là đạo thật?” Câu hỏi này lâu nay đã làm tôi băn khoăn, và tôi nóng lòng muốn nghe câu trả lời của vị sư huynh.  Và câu trả lời tôi nhận được là, 'Chúng ta không thể biết.  Chúng ta chỉ có thể dựa vào niềm tin mà thôi.’ Câu trả lời của vị sư huynh khiến tôi hoàn toàn thất vọng.”


Sau khi chúng tôi chia tay, tôi tự hỏi mình sẽ tự trả lời câu hỏi đó như thế nào đây.  Tất nhiên, không có tiêu chuẩn hợp lý, khách quan nào để chúng ta có thể đánh giá các tôn giáo, hoặc nhiều tuyên bố khác vốn không thể kiểm chứng bằng thực nghiệm.  Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta không thể đánh giá các tôn giáo hoặc xác định chân lý của chúng.  Điều chúng ta cần là một “nguyên tắc đầu tiên”, một nền tảng và xuất phát điểm đã được thống nhất, từ đó chúng ta có thể đánh giá chân lý của các tôn giáo.  Nguyên tắc này phải là nội tại đối với bản chất và mục đích của chính các tôn giáo.


Đối với nguyên tắc đầu tiên này, tôi đề xuất rằng chúng ta nên đánh giá các tôn giáo dựa trên mức độ chúng thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển của con người.  Cách tiếp cận này không loại trừ Thiên Chúa, cũng như không hạ thấp tôn giáo thành một phương thức hoạt động tự lực, thuộc thế giới này.  Thay vào đó, nếu chúng ta có thể đồng ý về học thuyết Do Thái-Kitô giáo rằng tất cả con người được tạo ra theo hình ảnh của Thiên Chúa, thì, như Thánh Irenaeus đã nói, chúng ta có thể nói rằng “vinh quang của Thiên Chúa chính là khi con người được sống trọn vẹn” –  và hành động theo đúng mục đích của mình.


Trên nền tảng này – một nền tảng mà mọi người thuộc mọi tín ngưỡng đều có thể đồng ý – tôi tuyên bố rằng Công giáo là tôn giáo chân chính vì nó bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển con người một cách trọn vẹn nhất.  Chúng ta có thể chứng minh tuyên bố này bằng cách nhìn Công giáo theo ba khía cạnh chung cho tất cả các tôn giáo: bản chất của đạo ấy là gì, những giáo lý của đạo ấy ra sao, và đạo ấy hứa hẹn điều gì với chúng ta.


Trải nghiệm của chúng ta về Công giáo bắt đầu với bản chất con người.  Chúng ta biết rằng chúng ta đã được tạo ra tốt đẹp, bởi vì Thiên Chúa không có khả năng làm điều sai trái hoặc xấu xa.  Tuy nhiên, mỗi ngày chúng ta đều phải đối mặt và phạm phải vô số điều sai trái, nhắc cho chúng ta nhớ một cách đau đớn rằng chúng ta thiếu sót, hữu hạn và sa ngã không còn là con người mà Đức Chúa Trời đã định khi tạo ra chúng ta.  Dù cố gắng đến đâu, chúng ta cũng không thể tự mình khắc phục hoặc chuộc lỗi hoàn toàn cho những thất bại của mình;  và ngay cả khi chúng ta có thể tự mình tiến bộ một cách tốt đẹp, chúng ta vẫn gặp phải những tình huống đáng buồn khi những những người tốt lại gặp phải những điều tồi tệ.


Thay vì bỏ mặc chúng ta trong vòng quay của sự tầm thường và khốn khổ, Đức Chúa Trời đã can thiệp trực tiếp vào công việc của con người. Người dần lộ diện theo thời gian, cho đến khi, có lẽ đã chán ngấy với việc chúng ta không thể hiểu được những gì mà Người biểu lộ, Người đã sẵn sàng trực tiếp đến gặp chúng ta với tư cách một con người.  Việc nhập thể của Con Thiên Chúa có hai tác dụng chính đối với loài người: chuộc những tội lỗi mà chúng ta không đủ sức để chuộc cho chính mình, và nêu gương cho chúng ta về cách sống phù hợp với ân sủng của các bí tích để có thể tiếp tục cuộc sống trên trần gian.  Do đó, Công giáo là một tôn giáo của hy vọng: giữa sự nghèo khó của chúng ta, Chúa Kitô, vì yêu thương loài người, “đã trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo khó của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.”  (2 Cô-rin-tô 8:9)


Vì ơn cứu chuộc của chúng ta vốn gắn liền với tấm gương mà Chúa Kitô đã đặt ra, nên các điều răn của Công giáo bắt nguồn trực tiếp từ chính bản chất của nó. Hoàn thiện Lề luật bằng cách bổ sung vào những điều cấm do Luật Cũ thiết lập, Chúa Kitô đã ban một điều răn: hãy yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta.  Do đó, tình yêu này không chỉ là tình cảm hay lời hứa mơ hồ về hòa bình: đó là sự hy sinh hoàn toàn bản thân vì lợi ích của người khác, và nó dường như trái ngược với bản chất sa ngã của chúng ta và cách thức của thế giới.  Nhưng chúng ta thường có thể tìm thấy (nơi những người sống trọn vẹn giới răn này) một niềm vui đích thực mà thế gian không thể cung cấp được.


Niềm vui này là lời hứa mà đạo Công giáo dành cho những ai đón nhận giáo lý và giới răn của mình.  Đó là niềm vui được kết hợp với Đức Chúa Trời, khác xa với tuyên bố buồn tẻ của những người theo chủ nghĩa thế tục rằng "hạnh phúc mà chúng ta cần chỉ có nghĩa là ít đau đớn hơn."  Nhưng nghịch lý thay, Công giáo cho rằng niềm vui đích thực chỉ đến với và qua đau đớn, khổ sở, bắt bớ và thậm chí bị từ chối.  Tất cả các tôn giáo đều quy định những cách đối phó với đau khổ;  chỉ có Công giáo hứa rằng đau khổ dẫn đến sự cứu chuộc.


Trong tất cả các tôn giáo, đạo Công giáo đã chạm đến phần sâu thẳm nhất của thân phận con người.  Học thuyết, luật lệ và những lời hứa của đạo Công giáo đáp ứng ngay tình trạng hiện tại của chúng ta, ngăn chúng ta làm trầm trọng thêm tình hình của mình, và đưa chúng ta đến với Chúa, mục đích cuối cùng của sự tồn tại của con người, không phải qua Con đường thênh thang – một con đường xa lạ với bản chất con người – mà ngang qua Núi Sọ.  Nơi thập giá, chúng ta tìm thấy sự cứu chuộc, và cùng với đó là sự thật về nhân tính của chúng ta.


Những kẻ gièm pha sẽ chỉ ra những tội lỗi của người Công giáo trong nhiều thế kỷ để làm bằng chứng ngược lại.  Nhưng sự lạm dụng không phủ nhận công dụng: công bằng mà nói, chúng ta phải đánh giá tất cả các tôn giáo dựa trên những tuyên bố cũng các như vị thánh [những tấm gương tiêu biếu] của chính tôn giáo ấy  chứ không phải là thông qua những người không sống đúng theo lý tưởng của mình.


Nhưng có lẽ nơi những người tội lỗi, chúng ta nhìn thấy sự thật tối hậu của Đạo Công giáo – tất nhiên, không phải ở những tội lỗi kinh hoàng, mà ở tiếng kêu tuyệt vọng từ nội tâm của họ.  Và để cứu A-đam, "Chúa Kitô, Ađam mới, trong khi mặc khải về Chúa Cha và tình yêu của Ngài, cũng giúp con người hiểu biết đầy đủ về chính mình và nhận ra ơn gọi vô cùng cao quý của mình." (Hiến chế Vui mừng và Hy vọng số 22)./-


Thứ Bảy, 21 tháng 1, 2023

DI SẢN TRÍ TUỆ CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG BENEDICTO XVI

Nguồn: https://www.spectator.co.uk/article/the-intellectual-legacy-of-pope-benedict-xvi

-------
DI SẢN TRÍ TUỆ CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG BENEDICTO XVI

Vì những lý do khá phức tạp để giải thích, trong thời gian hoàn thành bằng tiến sĩ tại Đại học Đức ở Rome vào những năm 1990, tôi thường dùng bữa sáng với người mà lúc ấy còn là Hồng y Ratzinger vào mỗi sáng thứ Năm trong suốt gần ba năm. Những cuộc gặp gỡ ấy ban đầu thường khá khó khăn bởi vì, mặc dù Đức Hồng y luôn lịch sự, nhưng ngài không hề có thói quen nói chuyện vãn và khá vô vọng trong việc bắt chuyện bình thường. Hồng y Ratzinger là một người rất nhút nhát và không dễ dàng giao tiếp.

Do đó, trong những bữa sáng như vậy, tôi sẽ lôi kéo ngài nói về thần học - và lúc ấy ngài bỗng sống động hẳn lên.  Tôi đang viết một luận án về nhà thần học vĩ đại người Đức là Karl Rahner, cũng là một nội dung mà Hồng y Ratzinger đã từng giảng dạy, và vì vậy thật dễ dàng lôi để lôi kéo ngài vào cuộc trò chuyện thần học về các chủ đề của Rahner. Hồng y Ratzinger, trên hết, là một nhà trí thức.  Về bản chất, ngài là một học giả - nhưng còn hơn cả một học giả.  Theo tôi, ngài là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại cuối cùng của thế kỷ 20.

Hồng y Ratzinger thuộc về giai đoạn nở rộ của thần học Công giáo vào giữa thế kỷ 20 - khi Giáo hội may mắn có được một nhóm các nhà thần học và triết gia lỗi lạc, những người đã dẫn dắt và hướng dẫn Giáo hội vượt qua sự thay đổi xã hội sâu sắc đã quét qua châu Âu sau cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai và là những người đã giúp định hình Giáo hội hiện đại sau Công đồng Vatican II.  Với những tên tuổi như Maritain, Gilson, Lonergan, Rahner, von Balthasar, Congar, De Lubac,  Hồng y Ratzinger đều có biết và đã từng làm việc với họ.

Và cũng giống như nhiều người trong số họ, Hồng y Ratzinger là một người đa tài.  Ngài có kiến ​​thức bách khoa toàn thư về văn hóa thế giới, về văn học, kinh thánh và nghệ thuật. Ngài chơi được tất cả các bản sonata dành cho piano của Mozart, trong đó có nhiều bản ngài đã thuộc lòng.

Mãi về sau, khi làm việc trong Bộ Giáo lý Đức tin, tôi đã dạy một khóa học tại Đại học Gregorian ở Rome, dựa trên tác phẩm nổi tiếng của Ngài dưới tên gọi Giới thiệu về Kitô giáo mà bất kỳ ai đã đọc nó đều biết, chỉ là một bản giới thiệu nhẹ nhàng về Kitô giáo. Tôi đã chọn tác phẩm này bởi vì tôi đã được thuyết phục, và vẫn thấy như vậy, rằng trong tác phẩm đầu tay này của ngài, người ta có thể nhìn thấy dấu hiệu của sự xuất sắc thực sự. Có rất ít các nhà tư tưởng ở bất kỳ thời đại nào thực sự có điều gì đó mới mẻ để nói - và Hồng y Ratzinger chính là một trong số ít những nhà tư tưởng thực sự đó.

Thật không may (xét theo một cách nào đó) sự phát triển về trí tuệ của Ratzinger đã bị cắt ngắn khi Giáo hoàng Paul VI bổ nhiệm ngài làm Tổng Giám mục Munich vào năm 1977. Hồng y Ratzinger không bao giờ muốn trở thành giám mục và ngài không bao giờ tìm kiếm sự thăng tiến trong giáo hội.  Vì tính nhút nhát của mình, ngài không bao giờ thích khía cạnh xã hội của việc trở thành một giám mục và thời gian trôi qua, ngài nhận thấy những tai tiếng xung quanh đã làm cho mình thật đau đớn.

Nhưng Ratzinger là một người của Giáo hội, và ngài đã làm những gì được yêu cầu - vì vậy, ba năm sau, khi Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đề nghị ngài trở thành Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, ngài đã đồng ý ngay lập tức.  Trong vai trò này, nhiệm vụ của Hồng y Ratzinger là xây dựng đức tin Công giáo và làm rõ ranh giới của tư tưởng Công giáo và ngài đã làm điều này với sự rõ ràng và sáng suốt vô song.  Đôi khi, nhiệm vụ của ngài là nói những điều không được nhiều người ưa chuộng và điều đó gây khó chịu cho những người theo chủ nghĩa tư tưởng đang thịnh hành vào thời ấy.  Nhưng đó là công việc của ngài và ngài đã làm điều đó với sự ân cần và nhân hậu nhất có thể có trong vai trò đó.

Thật không may, trong những năm qua, nhiều nhà bình luận, những người không thể tham gia vào cuộc tranh luận hoặc đối thoại thực sự về những vấn đề như vậy, chỉ đơn giản là dùng đến lời nói xúc phạm, và do đó, bức tranh biếm họa đã xuất hiện trên các phương tiện truyền thông về 'Hồng y Panzer [Panzer trong tiếng Đức có nghĩa là "áo giáp"], người cai trị Giáo hội' bằng nắm đấm sắt trong chiếc găng tay nhung.  Đối với chúng tôi, những người biết ngài, bức tranh biếm họa này hoàn toàn trái ngược với thực tế đến mức nó đã và đang trở thành nên lố bịch. Hồng y Ratzinger, giống như nhiều trí thức chân chính, rất tự tin vào ý kiến ​​của mình và luôn tò mò muốn hiểu ý kiến ​​của người khác. Ngài luôn cởi mở để thảo luận và không bao giờ từ chối cơ hội tranh luận.  Trong tất cả những gì tôi biết về ngài và trong tất cả những năm làm việc với ngài, tôi chưa một lần thấy ngài trở nên bối rối hoặc hung hăng.  Ngài không bao giờ lên mặt ta đây trong cuộc thảo luận, và ý tưởng về việc Ratzinger cao giọng với người khác quả là vô lý đối với những ai biết ngài.

Tôi chưa bao giờ gặp một ai thực sự biết Hồng y Ratzinger mà lại không yêu mến ngài.  Tôi đã học tiếng Đức tại Munich vào những năm 1980 và khá ngạc nhiên trước tình cảm mà những người dân của thành phố rất thế tục đó dành cho ngài.  Tại Đại học Đức ở Rome vào những năm 1990, tôi đã bị choáng ngợp bởi việc có hàng trăm khách hành người hương Đức đến vào thứ Năm hàng tuần để được cử hành thánh lễ với ngài lúc 7 giờ sáng. Khi tôi đến Bộ Giáo lý Đức tin vào những năm 2000, tôi thấy ngài được mọi người đối xử một cách gần như tôn kính; cả giáo triều kính trọng ngài vì tính chính trực, trung thực và thông minh của ngài.

Ngài là một người có đức tin sâu sắc.  Các tác phẩm tâm linh của ngài (bao gồm Tìm kiếm nước trời, Giáo điều và giảng thuyết, Tìm kiếm khuôn mặt của Chúa, và Người phục vụ niềm vui của bạn) rất đẹp bởi vì chúng xuất phát từ kinh nghiệm của ngài về tình yêu của Chúa và sự hiểu biết sâu sắc của ngài về thánh thư.

Nhưng trên hết di sản của Hồng y Ratzinger  là về trí tuệ - ngài là một nhà thần học có ảnh hưởng tại Công đồng Vatican II;  ngài ham gia vào cuộc tranh luận về niềm tin và lý trí, ủng hộ giá trị của đức tin trong thời đại mà chủ nghĩa tương đối đã bám rễ vào cuộc sống; và ngài đã cố gắng tập trung lại vào việc chú giải kinh thánh Công giáo thông qua một lăng kính mới (xem bộ sách Chúa Jesus người Nazareth gồm ba tập của ngài).  Cuối cùng, thông qua tất cả các công trình thần học của mình, ngài đã tìm cách cho thấy Chúa Giêsu Kitô là trung tâm của mọi sự và đưa ra phương hướng cũng như một chân trời rộng lớn hơn cho con người trong một thời đại bị bao vây bởi sự tầm thường hóa cuộc sống và việc liên tục hạ thấp con người thành một thứ gì đó thấp kém hơn những gì Đức Kitô đã mặc khải rằng chúng ta có thể trở thành.

Sự đóng góp của Hồng y Ratzinger cho đời sống của Giáo hội là rất lớn.  Ngài không phải là một nhà quản trị giỏi và giống như tất cả chúng ta, ngài đã phạm sai lầm.  Nhưng ngài là một người thực sự vĩ đại, và sự ra đi của ngài thực sự là một mất mát cho thế giới và cho Giáo hội.
------
Cha Patrick Burke là linh mục quản xứ tại Tổng giáo phận St Andrews và Edinburgh.

(PA dịch)