Trang blog này nhằm giới thiệu các bài viết có liên quan đến Giáo huấn xã hội Công giáo, còn gọi là Học thuyết xã hội Công giáo. Những bài viết này có thể của chính chủ blog (ít thôi) hoặc của nhiều tác giả khác trong và ngoài nước, đa số là những bài dịch, trong số đó có cả bài dịch của chủ blog. Hy vọng nó góp phần vào việc giúp mọi người hiểu hơn về những quan điểm về xã hội của giáo hội Công giáo.
Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2024
TRONG THỜI ĐẠI TRÍ TUỆ NHÂN TẠO, ĐIỀU GÌ LÀM NÊN SỰ ĐỘC ĐÁO CỦA CON NGƯỜI? (PHẦN 1/2)
Joshua Rothman
Phương Anh dịch và viết lời dẫn
----------
DẪN
Sự phát triển với tốc độ thần kỳ của trí tuệ nhân tạo trong thời gian vừa qua đã khiến nhiều người đặt câu hỏi, liệu con người có gì là độc đáo khi dường như tất cả những gì làm nên khả năng của con người đều có thể được thay thế bởi máy móc. Bài viết rất thú vị dưới đây đặt ra vấn đề về bản chất và phẩm giá thực sự của con người, và kết luận:
"Chúng ta nên nhìn nhận khả năng của AI là mạnh mẽ, nhưng không bao giờ thực sự giống con người. Chúng ta nên thoải mái hơn khi khẳng định rằng bản chất con người là không thể thay thế, và nên tự hào về thực tế rằng chúng ta phải khó khăn để có thể để định nghĩa bản chất ấy."
Nhưng cái bản chất mà tác giả cho rằng chúng ta đang phải khó khăn để định nghĩa ấy, nó là cái gì thế? Trong niềm tin Kitô giáo, chúng ta tin rằng con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa (Imago Dei), và sự sống của con người trên trần thế này hoàn toàn nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa. có mục đích cao cả trong kế hoạch của Thiên Chúa.
Dù AI có thể bắt chước nhiều kỹ năng và thậm chí tạo ra những điều tưởng như chỉ con người mới làm được, nhưng nó không thể có tình cảm, ý thức đạo đức, hay khả năng quyết định dựa trên tình yêu và lòng nhân từ. Trong một thế giới ngày càng phụ thuộc vào công nghệ, chúng ta càng cần nhìn lại giá trị cốt lõi của con người, không chỉ qua những gì chúng ta làm, mà qua phẩm giá nội tại của chúng ta, được Thiên Chúa trao ban và gìn giữ.
----------
"Hơn bao giờ hết, chúng ta đang phải đối mặt với thách thức trong việc định nghĩa giá trị của con người." Joshua Rothman
Mới đây, tôi đi cắt tóc và anh thợ cắt tóc kể cho tôi câu chuyện về trí tuệ nhân tạo. "Thật không thể tin được", anh ấy nói. "Tôi mới dùng AI để viết một bài thơ sinh nhật tặng cô con gái. Tôi đưa ý tưởng tôi muốn viết cho AI, nhưng tôi không biết cách gieo vần cho tốt, vì vậy AI đã viết tất cả. Khi con bé đọc bài thơ, nó rất cảm động và đã khóc! Sau đó, con bé còn đưa cho bạn của nó, cô bạn này người rất thông minh, và tôi nghĩ, “Thôi chết rồi, con bé sẽ nhận ra bài thơ này là do máy viết." Anh ta ngừng lại, thoăn thoắt đưa kéo bấm những lọn tóc cho đều, rồi tiếp. "Con bé không hề nhận ra nhé.”
Mọi người trong tiệm cắt tóc đều cười, dù có vẻ hơi kém thoải mái. Viết những bài thơ khiến con gái bạn khóc—nào, hãy thêm điều đó vào danh sách những điều vốn từng là khả năng độc đáo của (một số) con người, nhưng giờ thì không còn đúng nữa. Trí tuệ nhân tạo ngày nay hệ thống có thể làm thơ, viết code, viết các bài luận và truyện cười với chất lượng ở mức chấp nhận được, thực hiện các cuộc trao đổi hữu ích về kinh tế, chủ nghĩa hiện sinh và Trung Đông; và thậm chí thực hiện một số công đoạn trong nghiên cứu khoa học, chẳng hạn như lập kế hoạch thí nghiệm, đưa ra dự đoán và giải thích kết quả. Trí tuệ nhân tạo cũng có thể đưa ra phán đoán về các tình huống phức tạp—mô hình giao thông, đầu tư—với tốc độ siêu phàm. Trên thực tế, chúng ta vẫn chưa biết hết khả năng của AI. Các công ty công nghệ lớn nhất đang chạy đua phát triển các ứng dụng AI mới, một phần cũng là để tìm hiểu giới hạn cuối cùng của các tiềm năng ấy.
Có vẻ như danh sách những khả năng của AI sẽ chỉ có thể ngày càng dài ra—và do đó, con người ngày càng được thúc đẩy để trả lời câu hỏi: Thực ra con người có những tài năng gì nhỉ? Trước đây, các nhà thần học và triết học đã so sánh chúng ta với các loài động vật khác để từ đó xác định con người vượt trội hơn loài vật ở những điểm nào. Giờ đây, thứ tự trong bảng xếp hạng không những đã thay đổi mà còn bị đảo lộn hoàn toàn một cách bất ngờ.
Trong một số trường hợp, chúng ta thực sự ngưỡng mộ tài năng của AI (chẳng hạn, không thể có bất cứ ai có khả viết lách cách trôi chảy và nhanh chóng đến kinh ngạc như AI). Trong những trường hợp khác, chúng ta phát điên vì sự ngu ngốc của nó (không ai khuyên bạn nên hình thành thói quen ăn "ít nhất một hòn đá nhỏ" mỗi ngày, như ứng dụng AI của Google đã trả lời tôi cách đây không lâu khi tôi hỏi "Mỗi ngày tôi nên ăn bao nhiêu hòn đá nhỉ?"). Và trong nhiều trường hợp khác nữa, chúng ta thực sự bối rối trước sự khác biệt về cách suy luận của trí tuệ nhân tạo và của con người. AI không biết yêu, nhưng nó vẫn có thể đưa ra ý tưởng về tình yêu; nó không phải nghệ sĩ, nhưng nó vẫn có thể (có lẽ vậy) tạo ra những tác phẩm nghệ thuật; trước một quyết định hệ trọng, nó không có khả năng dằn vặt vì đắn đo chọn lựa, nhưng nó vẫn đưa ra được quyết định. Chúng ta biết rõ rằng có những khác biệt rõ rệt giữa con người và một cái máy tính biết suy nghĩ, nhưng để xác định những điểm khác biệt lại không dễ dàng một chút nào.
Tuy nhiên, câu hỏi trừu tượng này lại có những ý nghĩa vô cùng thực tế. Khi trí tuệ nhân tạo phát triển mạnh, ngày càng có nhiều điều phụ thuộc vào khả năng diễn đạt giá trị của chính chúng ta. Có vẻ như chúng ta đang ở ngưỡng cửa của một thế giới mà trong đó mọi loại người lao động—giáo viên, bác sĩ, nhà văn, nhiếp ảnh gia, luật sư, lập trình viên, nhân viên văn phòng, v.v.—sẽ bị thay thế hoặc ở một mức độ nào đó bị gạt ra ngoài lề bởi những ứng dụng AI. Khi AI vào cuộc, liệu điều gì sẽ bị mất đi?
Trong cuốn sách “AI Snake Oil: What Artificial Intelligence Can Do, What It Can’t, and How to Tell the Difference”, (tạm dịch: Dầu rắn thời trí tuệ nhân tạo: AI làm được gì và không làm được gì, và làm sao có thể phân biệt với trí tuệ loài người) hai nhà khoa học máy tính là Arvind Narayanan và Sayash Kapoor đã tiếp cận câu hỏi ở cấp độ thực tế. Họ thúc đẩy sự hoài nghi và lập luận rằng thuật ngữ “trí tuệ nhân tạo” như một thuật ngữ bao trùm như hiện nay có thể làm bình phong cho các công nghệ kém hiệu quả.
“Hãy tưởng tượng ở vũ trụ khác nơi con người không có từ ngữ để chỉ các hình thức vận chuyển khác nhau, chỉ sử dụng một danh từ chung chung là “‘phương tiện giao thông’”, các tác giả viết. Một thế giới như vậy sẽ chứng kiến “những cuộc tranh luận triền miên về việc ‘phương tiện giao thông’ có thân thiện với môi trường hay không, mà không ai nhận ra rằng một bên đang nói về xe đạp còn bên kia đang nói về xe tải”. Tương tự như vậy, theo các tác giả, thuật ngữ “trí tuệ nhân tạo” cũng bao gồm nhiều công nghệ khác nhau với nhiều cấp độ năng lực khác nhau.
Narayanan và Kapoor đặc biệt cảnh giác với trí tuệ nhân tạo dự báo, vốn được thiết kế để đưa ra dự đoán về tương lai. Không giống như AI tạo sinh — là công nghệ tương đối mới được sử dụng trong ChatGPT và các công nghệ tương tự — AI dự báo đã được tích hợp vào cuộc sống của chúng ta ở mức độ đáng ngạc nhiên. Các phòng ban nhân sự sử dụng AI để góp phần dự đoán ứng viên nào sẽ thành công trong công việc; các bệnh viện sử dụng AI để giúp quyết định ai nên được trả về nhà hoặc được chấp nhận nhập viện. Điều đáng nói là các hệ thống AI dự đoán hầu như không bao giờ được kiểm tra nghiêm ngặt và độc lập; khi thực sự được kiểm tra, chúng thường không đạt.
Narayanan và Kapoor kể lại những phát hiện của các nhà nghiên cứu đang điều tra một hệ thống AI có tên là Retorio, hệ thống này tuyên bố có thể dự đoán hành vi trong công việc trong tương lai và do đó là hiệu suất, bằng cách phân tích các cuộc phỏng vấn video với các ứng viên xin việc. Hóa ra, việc đeo kính hoặc khăn quàng cổ, ngồi trước một số giá sách hoặc gửi sơ yếu lý lịch dưới dạng PDF có thể thay đổi đáng kể điểm số của ứng viên. "Nhưng rõ ràng việc đeo kiếng đâu có làm thay đổi khả năng làm việc của một người", các tác giả viết. Vì vậy, theo các tác giả, hệ thống này chính là dầu rắn thời AI vậy.
__________
Nguồn: New York Times (bài và ảnh)
Link:https://www.newyorker.com/culture/open-questions/in-the-age-of-ai-what-makes-people-unique
Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2024
Hành trình đức tin luôn sống động (First Things, 13/8/2024)
Nhà thờ ngày càng vắng, ngày càng nhiều người trẻ tự nhận mình không theo một tôn giáo nào, số lượng giáo dân được ghi nhận ngày càng giảm... đó là tình trạng của hầu hết các nước phương tây hiện nay, nơi Kitô giáo (với nhiều hệ phái khác nhau) là tôn giáo chính. Phải chăng xã hội phương tây ngày nay đã trở nền (gần như) hoàn toàn tục hóa, nơi người ta không còn cần đến Thiên Chúa nữa? Hay ngược lại, chính sự bỏ đạo lại là dấu hiệu cho thấy con người ngày nay cần Thiên Chúa hơn bao giờ hết, và vì vậy không thể dễ dàng chấp nhận một đức tin được di truyền từ đời này sang đời kia mà không cần có chút gì liên quan đến cuộc sống hàng ngày của họ?
Câu trả lời có thể tìm thấy trong bài viết này, dựa trên một nghiên cứu khoa học về những biến chuyển trong hành trình đức tin của mỗi con người.
----------------------------------
Khi lời tiên đoán về ngày tận thế của giáo phái Nhân chứng Giê-hô-va về ngày tận thế đã không xảy ra vào năm 1975, Gudrun và Werner, cặp đôi trẻ đến từ Đức, đã trao đổi với nhau về những sự nghi ngờ ngày càng tăng và cuối cùng đã chọn rời khỏi cộng đồng đức tin của mình. Nhiều thập kỷ trôi qua, và vào năm 2003, họ tham gia vào một nhà thờ thuộc hệ phái n điển Thánh linh. Mười năm sau, họ nói với các nhà nghiên cứu rằng họ cũng đã rời khỏi nhà thờ đó, nhưng vẫn tự đọc Kinh thánh hoặc, trong trường hợp của Gudrun, đã tham gia vào một buổi học Kinh thánh dành cho phụ nữ.
Câu chuyện của cặp đôi này, được trình bày chi tiết trong tác phẩm Giai điệu chủ đạo trong câu chuyện cuộc đời (Leitmotifs in Life Stories) của tác giả Ramona Bullik, minh họa cách đức tin phát triển trong suốt cuộc đời theo những cách khác thường không giống như những câu chuyện mà ta thường nghe. Người ta rời bỏ tôn giáo, rồi quay trở lại, rồi lại bỏ. Hơn nữa, nhiều người có thể rời khỏi các nhóm tôn giáo trong những giai đoạn nào đó trong đời, nhưng không nhất thiết trở thành người vô thần.
Cuốn sách của Bullik kể lại những câu chuyện của Gudrun và Werner cùng với bảy người khác. Câu chuyện của bà dựa trên nghiên cứu của các nhà tâm lý học Heinz Streib và Ralph J. Hood, những người đã phỏng vấn hàng trăm người tại Hoa Kỳ và Đức đã rời bỏ cộng đoàn tôn giáo của mình. Nghiên cứu theo chiều dọc đầu tiên của họ trong hơn 20 năm gần đây đã hoàn thành đợt phỏng vấn thứ tư theo cùng một nhóm người.
Streib đã theo học với nhà thần học James Fowler và sử dụng lại cuộc phỏng vấn của ông về hành trình phát triển của đức tin. Nhưng nghiên cứu của Streib đã khiến ông mô tả đức tin theo cách khác. Trong mô hình của Fowler, con người sẽ trải qua các giai đoạn phát triển của tâm linh . Streib phản bác, "Để nói rằng con người càng già đi thì đức tin của họ càng phát triển thì quá dễ”. Những nghiên cứu về sự khôn ngoan đã chỉ ra rằng con người không nhất thiết trở nên khôn ngoan hơn khi họ già đi.
“Tôi không thể đơn giản nói rằng có những bước đi rõ ràng … hoặc một quỹ đạo xác định cho tất cả mọi người trong suốt cuộc đời. Bởi vì có rất nhiều hoàn cảnh đa dạng, và khi một người gặp phải những khủng hoảng hoặc hoàn cảnh sống khác biệt, người ấy có thể sử dụng những cách thức khác nhau để đối phó với những thách thức đó”, ông nói.
Hood đưa ra ví dụ sau: Nếu bạn đưa con đến bác sĩ nhi khoa, bác sĩ có thể hỏi về kỹ năng vận động của con bạn. Con đã biết bò chưa? Con đã cố gắng tự đứng dậy chưa? Con có cố gắng bước đi trong khi bám vào đồ đạc không? Nhưng một khi con bạn biết đi, phải chăng điều đó có nghĩa là bạn sẽ không bao giờ thấy con mình bò nữa? Không phải thế. Trên thực tế, trong một vụ cháy nhà, lính cứu hỏa sẽ yêu cầu những người lớn quỳ xuống và bò ra ngoài.
Tiếp tục ví dụ trên, sau vụ hỏa hoạn - tất nhiên nếu không ai bị thương tích gì - họ sẽ đi trở lại bình thường, để có thể đi xa hơn. Tương tự như vậy, Streib cho biết những người thay đổi tôn giáo của họ không phải lúc nào cũng thực sự mất hết đức tin - họ vẫn đang phát triển về mặt tâm linh, đôi khi theo một cách khác và đôi khi họ tìm được cách để ở lại.
Đối với Gudrun, cuộc hôn nhân của bà với Werner đã tác động rất lớn đến hành trình tôn giáo của bà. Trong khi bà tự mô tả mình là một tín đồ ngoan đạo của hệ phái thời thơ ấu của bà - và bà gặp chồng mình thông qua giáo phái Nhân chứng Giê-hô-va - thì Werner vẫn luôn có những sự hoài nghi. Ông mô tả tình trạng khủng hoảng của mẹ mình ở Đông Đức sau Thế chiến II là nguyên nhân thúc đẩy bà tham gia vào giáo phái Nhân chứng Giê-hô-va; chính giáo phái này đã giúp họ chạy trốn sang Tây Đức. Khi còn trẻ, Werner đã muốn tách mình khỏi nhóm, nhưng sau đó chính từ nơi này ông đã gặp vợ mình. Cuối cùng, chính Werner đã tìm kiếm những góc nhìn khác và cuối cùng đã thúc đẩy Gudrun nhìn nhận những thiếu sót của nhóm giáo phái này như lý do để họ rời đi.
Werner mô tả những sự chuyển đổi trong cuộc sống đức tin của mình một cách thực tế: sau khi rời khỏi giáo phái Nhân chứng Giê-hô-va, họ đã gia nhập Giáo hội Tin lành địa phương vì con gái họ đã chào đời. Khi vị mục sư chuyển đến một cộng đoàn khác, họ đã tìm thấy một cộng đoàn mới - thuộc hệ phái n điển Thánh linh. Gudrun thấy mình thật thoải mái trong truyền thống mới này, dễ dàng chấp nhận các nghi lễ và niềm tin của một hệ phái tràn đầy linh hứng. Lúc đầu Werner rất nhiệt tình, nhưng sau đó cảm thấy nhàm chán về mặt trí tuệ. Ông đã tìm thấy sự thức tỉnh về thần học qua việc xem xét niềm tin của mình bằng lăng kính khoa học và so sánh Kinh thánh với các tác phẩm cổ khác, chẳng hạn như tiếng Assyria hoặc tiếng Ai Cập.
Thay đổi căn tính tôn giáo
Các nhà tâm lý học Neal Krause và Gail Ironson cũng đã cân nhắc sự thay đổi tôn giáo theo thời gian, xem xét liệu mọi người có nhất quán xác định mình là người theo một tôn giáo cụ thể, hoặc không theo tôn giáo nào nhưng có khuynh hướng tâm linh, hay hoàn toàn chẳng có chút niềm tin nào. Trong nghiên cứu hai đợt của họ, một phần tư số người tham gia nghiên cứu đã thay đổi danh xưng về tôn giáo của mình trong khoảng thời gian bảy năm. Dữ liệu nghiên cứu mặc dù cũng có một số hạn chế, nhưng nhìn chung có thể thấy rằng càng già đi thì mọi người càng ít có khả năng thoát khỏi căn tính tôn giáo của mình. Cuối cùng, Krause và Ironson kết luận rằng căn tính tôn giáo và tâm linh là một cái gì đó thường xuyên biến đổi, và bất kỳ lúc nào cũng có những n gười đang định hình lại đức tin của mình.
Sau khi rời khỏi nhiều hệ phái khác nhau, Werner, ở tuổi 79, không còn tuân theo những cách giải thích Kinh thánh theo nghĩa đen và cảm thấy không còn phụ thuộc vào các tôn giáo có tổ chức. Ông quan niệm việc "theo đạo" thoáng hơn rất nhiều - điều đó đơn giản chỉ là sự tham gia tìm kiếm những câu hỏi về cùng đích của cuộc đời. Ông từ chối một hình ảnh hẹp hòi về Thiên Chúa, trong đó Ngài là một đấng để trừng phạt sự sai trái, và ông cũng không còn tin rằng Ngài là đấng “toàn năng". Tuy nhiên, ông tin vào một Thiên Chúa nhân từ trong hình ảnh của Đức Giêsu, đấng luôn có sự đồng cảm xót thương xót đối với loài người.. Ông không tuân theo một hệ thống tín lý nào, nhưng trong lòng luôn có sự thôi thúc tìm kiếm chân lý, và người vợ ngoan đạo đã trở thành điểm tựa duy nhất cho ông, vì ông không hề tham gia vào đời sống cộng đồng của bất kỳ tôn giáo nào.
Ở tuổi 83, Gudrun chọn một hướng đi đức tin hơi khác. Không còn duy trì việc thực hành đức tin trong một cộng đồng sùng tín như trước đây, dường như bà hơi tiếc nuối về điều này và vẫn duy trì mối liên hệ với một nhóm nghiên cứu Kinh thánh dành cho phụ nữ. Bà ít quan tâm đến việc người khác “dán nhãn” cho đức tin của mình như thế nào. So với những năm tháng thời trẻ, bà đang thấy mình hài lòng hơn với niềm tin của mình vào Thiên Chúa và vào Chúa Giêsu. Bà nói đến ảnh hưởng của một nhà thần học Công giáo đối với mình, và mô tả niềm tin của mình vào Chúa như sau: "Điều mà Giáo hội cần nhận ra là phải từ bỏ vị Chúa nghiêm khắc trừng phạt và nhận ra rằng Ngài là một vị Chúa của tình yêu vô hạn. […] Điều đó hoàn toàn thuyết phục đối với tôi."
Những bài viết trên truyền thông không đúng
Đối với Hood, những bài viết không đủ tinh tế về sự bỏ đạo có thể dẫn đến sự hiểu lầm rằng nền văn hóa của chúng ta ngày càng trở nên thế tục hơn khi có người rời bỏ một nhóm tôn giáo nào đó. Theo nghiên cứu của các tác giả, không phải là khi người ta rời bỏ một niềm tin thì sẽ đương nhiên trở thành vô thần. Một số người vẫn duy trì niềm tin tâm linh. Đối với một số người, khi đức tin của họ phát triển thông qua những hành động nhìn bên ngoài có vẻ như là bỏ đạo, thì lúc đó họ đang tự đào sâu hơn về đức tin, chứ không phải trở nên thế tục hơn.
Những phát triển tâm lịnh này có thể xuất hiện trong những gì nằm ngoài căn tính tôn giáo thông thường—ví dụ, sự quan tâm của Werner đến các tác phẩm cổ xưa khác hoặc với khoa học hiện đại. Đối với những người khác, việc thực hành yoga hoặc thiền định. "Nhiều người tìm kiếm một diều gì khác", Streib nói.
“Họ có thể không gọi đó là tôn giáo. Họ có thể tìm từ ngữ khác để diễn đạt. Họ có thể gọi đó là tâm linh.”
Nguồn: External link
Chủ Nhật, 14 tháng 4, 2024
Những điều đúng đắn trong Tuyên ngôn 'Phẩm giá vô hạn
Những điều đúng đắn trong Tuyên ngôn 'Phẩm giá vô hạn'
(Đăng trên The Catholic Thing, Thứ Sáu, 12/4/2024)
Tác giả: Michael Pakaluk, Phương Anh dịch
“Phẩm giá vô hạn”, tên của Tuyên ngôn mới đây về phẩm giá con người của Bộ Giáo lý đức tin, có thể gây nhầm lẫn cho những người nói tiếng Anh. “Vô hạn” có nghĩa chính xác là “không có giới hạn”. Tuy nhiên, chúng ta đã ngầm bổ sung thêm những hạn định, chẳng hạn như thời gian, sức mạnh hoặc sự hoàn hảo. Nhiều người cho rằng chỉ có Thiên Chúa với bản chất của Người mới có thể tuyên bố là vô hạn theo những nghĩa nêu trên. Vậy thì Tuyên ngôn này có khẳng định một chủ nghĩa nhân văn mới nào đó, dựa trên thiên tính của con người không?
Tuyên ngôn nêu rõ rằng từ vô hạn có nghĩa là “không bị giới hạn bởi hoàn cảnh”. Nghĩa là, phẩm giá con người không mất đi khi ai đó nghèo khổ, yếu đuối, đang trong cơn quằn quại của một căn bệnh hiểm nghèo. . .hoặc đang trong bụng mẹ. Cũng có nghĩa là, Tuyên ngôn mong muốn nhấn mạnh chính xác quan điểm mà phong trào bảo vệ sự sống luôn mong muốn nhấn mạnh. Việc sở hữu các quyền con người không thể phụ thuộc vào vị trí của một người, dù người đó có đang ở trong bụng mẹ, hoặc vào việc người khác có chào đón sự tồn tại của bạn, hoặc có trao quyền cho bạn hay không.
Nhân quyền phụ thuộc vào bản chất con người, và dựa trên bản chất đó, chúng ta có một phẩm giá nội tại và bất khả xâm phạm. Nếu việc cho phép kết liễu cuộc sống của những đứa trẻ được sinh ra ngoài ý muốn – hoặc thậm chí chỉ là đòi quyền làm như vậy là một sự vi phạm trắng trợn nhân quyền! – thì diều tương tự cũng phải được áp dụng với trẻ chưa được sinh ra.
Khi giải quyết thẳng thắn vấn đề cơ bản của nhân quyền, Tuyên ngôn Phẩm giá vô hạn (PGVH) đã cung cấp nền tảng cần thiết cho Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc. Tuyên ngôn PGVH đã ca ngợi Tuyên ngôn Nhân quyền và đánh giá Tuyên ngôn này (cùng với Thánh Gioan Phaolô II) như là sự đạt được của nhân loại ở mức độ cao về những đòi hỏi xuất phát từ phẩm giá con người.
Tuy nhiên, cũng giống như Jacques Maritain đã nêu rõ khi suy ngẫm về việc xây dựng Tuyên ngôn Nhân quyền, Tuyên ngôn PGVH đã cố tình làm cho cơ sở triết học và tôn giáo của các quyền đang được loan báo trở nên không rõ ràng.
Những người soạn thảo Tuyên ngôn phụ thuộc vào phương pháp thực dụng mà sau này John Rawls gọi là “sự đồng thuận chồng chéo”. Sau Thế chiến thứ hai, giữa lúc mọi người đang thoái lui trước sự khủng khiếp của Chủ nghĩa Quốc xã, dường như chỉ cần khẳng định các quyền đã được đồng thuận rộng rãi trước đó nhưng đã bị chủ nghĩa quân phiệt và phân biệt chủng tộc của phong trào Quốc xã phủ nhận là đủ.
Điều này đòi hỏi phải hạ thấp tầm quan trọng của những phủ định tương tự của Liên Xô, một bên ký kết. Và rõ ràng, nếu những người Cộng sản vô thần tham gia ủng hộ, thì nền tảng thực sự của nhân quyền, về phẩm giá siêu việt của con người được Thiên Chúa tạo dựng và được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc không thể được khẳng định.
Nhưng mọi việc diễn ra như thế nào theo phương pháp “đồng thuận chồng chéo”? Đơn giản chỉ cần nhìn vào những vi phạm nhân phẩm trong phần thứ hai của Tuyên ngôn mới đây của Bộ Giáo lý đức tin. Sự đồng thuận đã bị phá vỡ. Như Tuyên ngôn đã chỉ ra, các quyền giả mạo hiện đang được khẳng định, dựa trên những ý tưởng sai lầm về quyền tự do và quyền tự chủ của con người. Những quyền này (“quyền lựa chọn”) thậm chí còn được hưởng sự bảo vệ của pháp luật và được cho là quan trọng hơn cả các quyền thực sự. Họ thậm chí còn tự nhận cho mình danh hiệu cao quý là “nhân phẩm” (chẳng hạn như “Cái chết có nhân phẩm”).
Người ta nghĩ rằng trong bối cảnh như vậy, “Phẩm giá vô hạn” sẽ khẳng định, cũng như các giám mục Hoa Kỳ, rằng “mối đe dọa phá thai” là “ưu tiên hàng đầu” cho hướng dẫn và chính sách chính trị.
Chẳng phải chăng phá thai hợp pháp nhằm thúc đẩy “quyền lựa chọn” là sự phủ nhận rõ ràng nhất, trắng trợn nhất đối với sự thật mà Tuyên ngôn PGVH mong muốn khẳng định đó sao? Và quả thực, Tuyên ngôn đã thể hiện quan điểm này theo hai cách.
Đầu tiên, Tuyên ngôn xác nhận điều này bằng những lời trong nội dung Tuyên ngôn. Trích lời Thánh Gioan Phaolô II, Tuyên ngôn nhận xét rằng: “Việc chấp nhận việc phá thai trong tâm trí bình dân, trong cách cư xử, và ngay cả trong chính luật pháp là một dấu hiệu rõ ràng về một cuộc khủng hoảng cực kỳ nguy hiểm về ý thức đạo đức, một cuộc khủng hoảng ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn vì không có khả năng phân biệt giữa thiện và ác, ngay cả khi quyền cơ bản nhất là quyền được sống đang bị đe dọa.”
Và trích lời Đức Thánh Cha Phanxicô, Tuyên ngôn khẳng định: “Việc bảo vệ sự sống từ khi còn là bào thai gắn liền với việc bảo vệ mọi quyền con người khác. Điều này liên quan đến niềm tin rằng con người luôn thiêng liêng và bất khả xâm phạm, trong mọi tình huống và mọi giai đoạn phát triển. . . . Một khi niềm tin này biến mất, thì những nền tảng vững chắc và lâu dài để bảo vệ nhân quyền cũng sẽ luôn phụ thuộc vào ý muốn bất chợt của các quyền lực hiện tại.
Nhưng Tuyên ngôn cũng ngầm khẳng định những điều này khi chọn bố cục để trình bày về vấn đề phá thai.
Hãy thừa nhận mục đích của Tuyên ngôn là cung cấp nền tảng thực sự cho một tuyên bố phổ quát về nhân quyền và hệ thống hóa đạo đức của tình huynh đệ nhân loại nói chung, điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã nêu lên cho chúng ta trong Fratelli tutti .
Đương nhiên, khi thảo luận về những vi phạm nhân phẩm liên quan đến những mối lo ngại đã nêu,Tuyên ngôn bắt đầu với vấn đề nghèo đói và chênh lệch giàu nghèo giữa các quốc gia; tai họa của chiến tranh; và tình trạng tuyệt vọng của người tị nạn và người di cư.
Nhưng trong số những vi phạm nhân phẩm thuộc quyền lập pháp trực tiếp của một quốc gia, được xem là sự sắp xếp trật tự của chính quốc giá ấy thông qua luật pháp, Tuyên ngôn đặt việc phá thai và vụ bê bối phá thai hợp pháp lên hàng đầu.
Có nhiều đặc điểm tuyệt vời khác của Tuyên ngôn này, chẳng hạn sự bác bỏ mạnh mẽ việc mang thai hộ và khẳng định rằng sự khác biệt giữa nam và nữ là có thật, bất khả xâm phạm và là một món quà từ Thiên Chúa trong Sáng tạo - góp phần vào sự tự do đích thực của chúng ta, chứ không phải là một “sự phân công” của con người nhằm buộc chúng ta phuc tùng người khác.
Người ta có thể hơi tiếc rằng khi Tuyên ngôn đã không thực hiện bước kết nối tự nhiên giữa cuộc cách mạng tình dục với sự nhầm lẫn về nhân quyền kể từ năm 1948. Làm sao chúng ta thể hiện được sự tôn trọng đối với phẩm giá vô hạn của con người nếu chúng ta tỏ ra ít quan tâm đến việc liệu phẩm giá này có tồn tại trong phạm vi nội bộ một cuộc hôn nhân hay chăng? Tuyên ngôn sẽ thật sự tươi mới nếu khẳng định rằng, ở đây, công bằng xã hội đích thực phụ thuộc vào điều mà nhiều người gạt bỏ như một vấn đề đạo đức cá nhân đơn thuần!
Cũng có những phản bác hợp lý khác về Tuyên ngôn này. Mặc dù thế, tôi vẫn thấy trong tài liệu này Giáo hội đang giảng dạy cho thế giới.
Về tác giả:
Michael Pakaluk, một chuyên gia về Triết học Aristotle và giáo sư chính thức của Học viện Giáo hoàng Thánh Thomas Aquinas, là giáo sư tại Trường Kinh doanh Busch tại Đại học Công giáo Hoa Kỳ. Ông sống ở Hyattsville, MD cùng với vợ là Catherine, cũng là giáo sư tại Trường Busch và tám người con của họ. Cuốn sách nổi tiếng của ông về Tin Mừng Máccô là Hồi ký của Thánh Phêrô. Cuốn sách gần đây nhất của ông, Tiếng nói của Đức Maria trong Tin Mừng Gioan: Một bản dịch mới với lời bình luận, hiện đã được phát hành. Cuốn sách mới của ông, Hãy là những chủ ngân hàng tốt: Nền kinh tế thiêng liêng trong Tin mừng Matthêu, sẽ xuất bản tại Regnery Gateway trong vài tháng tới. Giáo sư Pakaluk được Đức Bênêđíctô XVI bổ nhiệm vào Học viện Giáo hoàng Thánh Thomas Aquinas.
Nguồn: https://www.thecatholicthing.org/2024/04/12/whats-right-about-infinite-dignity/?utm_source=The+Catholic+Thing+Daily&utm_campaign=64f8878d2a-EMAIL_CAMPAIGN_2018_12_07_01_02_COPY_01&utm_medium=email&utm_term=0_769a14e16a-64f8878d2a-244329806&mc_cid=64f8878d2a&mc_eid=c8438e69ca